Vào thứ 5 tuần này, Journal club sẽ có bài báo cáo về chủ đề “Cordycepin prevents the esophageal stricture formation in the alkali-burn rat model by exerting anti-inflammatory and antifibrotic effects”
Nutraceuticals là một thuật ngữ chung được sử dụng rộng rãi để mô tả bất kỳ sản phẩm nào có nguồn gốc từ các nguồn thực phẩm bổ sung có lợi cho sức khỏe ngoài các giá trị cơ bản về dinh dưỡng trong thực phẩm. Chúng có thể được coi là một liệu pháp sinh học không-cụ thể (non-specific biological therapies) được dùng để thúc đẩy tình trạng sức khỏe chung, các triệu chứng kiểm soát của cơ thể và ngăn chặn các quá trình ác tính. Triết lý đằng sau Nutraceuticals là tập trung vào việc phòng ngừa và Cordicepin được xếp vào nhóm này. Gần đây, các nghiên cứu đã khám phá được nhiều tác dụng của Cordicepin và chủ đề lần này sẽ cập nhập những phát hiện đó.
Sau thời gian giãn cách xã hội do dịch COVID-19, Viện Tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM xin thông báo đến Quý Khách hàng, Đối tác về kế hoạch trở lại làm việc, hoạt động của Viện như sau:
Viện Tế bào gốc hoạt động trở lạikể từ ngày 04/10/2021.
Quý Khách hàng, Đối tác có nhu cầu đến làm việc tại Viện yêu cầu phải hoàn thành ít nhất 1 mũi vaccine ngừa COVID-19 ít nhất 14 ngày, có minh chứng cụ thể trên các ứng dụng (VNEID, PC-COVID, Sổ sức khoẻ điện tử hoặc Y tế HCM), có giấy xác nhận tiêm chủng; hoặc có giấy xác nhận khỏi bệnh COVID-19.
Quý Khách hàng, Đối tác đến làm việc tại Viện yêu cầu tuân thủ nghiêm các quy định phòng, chống dịch bệnh như: đeo khẩu trang, giữ khoảng cách, khai báo y tế và thường xuyên sát khuẩn tay, …
Viện Tế bào gốc xin thông báo đến Quý Khách hàng, Đối tác, Đơn vị, Tổ chức và Cá nhân được biết và liên hệ công tác.
Viện Tế bào gốc xin thông báo về LỊCH BẢO VỆ LUẬN ÁN TIẾN SĨ CẤP CƠ SỞ ĐÀO TẠO CỦA NCS PHAN LỮ CHÍNH NHÂN như sau:
Tên đề tài: Nghiên cứu tạo mô hình nuôi tế bào 2D, 3D dùng để sàng lọc các cao chiết thực vật có độc tính trên tế bào ung thư vú, tế bào gốc ung thư vú VN9 CD44+/CD24-
Họ và tên NCS: PHAN LỮ CHÍNH NHÂN Ngành: Sinh lý học người và động vật ; Mã số ngành: 62420104 Thời gian bảo vệ: 8g00, ngày 13/10/2021 Hình thức bảo vệ luận án: Sử dụng phần mềm trực tuyến
Thành phần tham dự bảo vệ luận án tiến sĩ cấp CSĐT trực tuyến (online) – Nghiên cứu sinh: PHAN LỮ CHÍNH NHÂN – Tất cả thành viên Hội đồng chấm luận án theo Quyết định số 1173/QĐ-KHTN, ngày 24/09/2021 của Hiệu trưởng Trường ĐH KHTN. – Giảng viên hướng dẫn
****LƯU Ý Khách ngoài Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên, SV, HVCH, NCS có nhu cầu tham dự buổi bảo vệ luận án vui lòng đăng ký tại LINK: https://forms.gle/aD3QGRRDKA2Z2Q9c9 từ ngày 06/10/2021 đến ngày 08/10/2021 để được cung cấp mật khẩu tham gia.
Tiếp theo kỳ trước, chúng tôi tiếp tục cung cấp thông tin đầy đủ hơn về các ứng dụng hiện tại của tế bào gốc trong điều trị bệnh mà đôi khi bị giới truyền thông hoặc những người không hiểu đầy đủ về khoa học tế bào gốc thổi phồng.
Kỹ thuật viên thao tác trong phòng thí nghiệm Tế bào gốc Bệnh viện đa khoa Vạn Hạnh. Nguồn: BVĐK Vạn Hạnh
5. Thông tin khoa học phía sau một căn bệnh nên phù hợp với khoa học phía sau việc điều trị
Bệnh nhân càng biết nhiều về nguyên nhân và ảnh hưởng của bệnh càng có nhiều thông tin để xác định các lựa chọn điều trị tốt nhất. Ví dụ, nếu bệnh nhân bị mắc ung thư máu, điều trị ung thư có sử dụng kèm theo sau đó cấy ghép với các tế bào gốc tạo máu sẽ có ý nghĩa. Nếu bệnh nhân bị tiểu đường, việc điều trị bằng tế bào gốc tạo máu không có ý nghĩa gì, bởi vì vấn đề là ở tuyến tụy chứ không phải ở máu. Việc điều trị đòi hỏi phải có sự hiểu biết xem những tế bào cụ thể đó phải làm chính xác những gì và chúng được thiết kế để làm. Nếu không có thao tác đáng kể và cẩn thận trong phòng thí nghiệm, các tế bào gốc dành riêng cho mô sẽ không thể tạo ra các loại tế bào được tìm thấy bên ngoài các mô nhà của chúng.
6. Các tế bào từ chính cơ thể của bệnh nhân không mặc định được coi là an toàn khi sử dụng trong điều trị
Về lý thuyết, hệ thống miễn dịch của bệnh nhân sẽ không tấn công các tế bào của chính bệnh nhân. Vì vậy, các tế bào của chính bệnh nhân sẽ không bị thải loại trong cấy ghép tự thân (sử dụng một tế bào của chính bệnh nhân để ghép cho họ). Tuy nhiên, các quá trình mà các tế bào được thu nhận, tăng sinh về số lượng và sau đó được đưa vào lại trong cơ thể sẽ mang đến rủi ro tiềm ẩn như:
– Bất cứ lúc nào các tế bào được lấy ra khỏi cơ thể của bệnh nhân, chúng sẽ có nguy cơ bị nhiễm virus, vi khuẩn hoặc mầm bệnh khác. Khi cấy ghép trở lại có thể gây bệnh cho chính bệnh nhân.
– Quá nhiều các thao tác trên các tế bào có thể can thiệp vào chức năng bình thường của chúng, bao gồm cả kiểm soát sự phát triển của tế bào.
– Cách thức đưa tế bào trở lại cơ thể bệnh nhân: ở đâu, theo đường truyền nào … quyết định lớn đến hiệu quả điều trị bệnh. Có một số phòng khám tiêm tế bào vào những nơi mà ở điều kiện tự nhiên, tế bào gốc không có mặt và vị trí được tiêm cũng không thuộc về chúng.
7. Lời chứng thực của bệnh nhân và các phương pháp quảng cáo được cung cấp bởi các phòng khám có thể gây hiểu nhầm
Thật khó có thể nói sự khác biệt giữa các thử nghiệm lâm sàng hợp pháp dưới sự thực hiện của các bác sĩ chuyên khoa tại các bệnh viện chính thống và các phòng khám quảng cáo đang thực hiện các phương pháp điều trị chưa được cấp phép. Một điểm khác biệt phổ biến là cách đưa phương pháp điều trị ra thị trường. Hầu hết các bác sĩ chuyên khoa đều nhận được sự giới thiệu của bệnh nhân, trong khi các phòng khám quảng cáo có dịch vụ điều trị tế bào gốc có xu hướng tiếp thị trực tiếp cho bệnh nhân, thường thông qua ngôn ngữ trên Internet, Facebook và trong các quảng cáo trên báo.
Các phòng khám quảng cáo có dịch vụ điều trị tế bào gốc chưa được chứng minh thường xuyên nói quá những lợi ích trong dịch vụ họ cung cấp và sử dụng lời chứng thực của bệnh nhân để hỗ trợ cho tuyên bố của họ. Tuy nhiên, những lời chứng thực này có thể là cố ý hoặc vô ý gây hiểu lầm. Ví dụ, một bệnh nhân có thể cảm thấy tốt hơn ngay sau khi được điều trị, nhưng sự cải thiện có thể là do các yếu tố khác, chẳng hạn như niềm tin mãnh liệt rằng việc điều trị sẽ có hiệu quả, điều trị phụ trợ đi kèm với điều trị chính, thay đổi lối sống lành mạnh thích nghi trong kết hợp với điều trị và biến động tự nhiên trong tình trạng bệnh. Những yếu tố này rất phức tạp và khó đo lường khách quan bên ngoài ranh giới của các thử nghiệm lâm sàng được thiết kế cẩn thận. Bệnh nhân nên tìm hiểu thêm về lý do tại sao chúng ta cần thực hiện các thử nghiệm lâm sàng ở đây.
8. Một điều trị mang tính chất thí nghiệm (experimental treatment) không giống như một thử nghiệm lâm sàng (clinical trial)
Thực tế, một quy trình thí nghiệm không phải hiển nhiên là một phần của nghiên cứu khoa học hoặc của các thử nghiệm lâm sàng. Các thử nghiệm lâm sàng hợp pháp phải đáp ứng một số đặc điểm sau:
– Thử nghiệm lâm sàng (TNLS) được thực hiên dựa trên dữ liệu tiền lâm sàng của chính họ, các nghiên cứu về tế bào trong phòng thí nghiệm, các nghiên cứu về mô và động vật, và các nghiên cứu cho thấy phương pháp điều trị đang được thử nghiệm là an toàn và hiệu quả.
– TNLS chịu sự giám sát của một ủy ban y đức độc lập để bảo vệ quyền của người tham gia.
– TNLS phải tuân theo và phù hợp với các yêu cầu đã đươc quy định, và thông tin của thử nghiệm phải đươc cơ quan quản lý chức năng công nhận.
– TNLS phải là một cấu trúc được thiết kế để trả lời các câu hỏi cụ thể về phương pháp điều trị mới hoặc cách sử dụng phương pháp điều trị hiện tại mới (kết quả thường được so sánh với nhóm bệnh nhân không được điều trị thử nghiệm).
– Người tham gia TNLS không phải trả các chi phí điều trị và theo dõi
– Các thử nghiệm lâm sàng hợp pháp là rất quan trọng đối với sự phát triển của các phương pháp điều trị mới.
9. Để chuyển một nghiên cứu khoa học thành phương pháp điều trị y tế an toàn và hiệu quả cần trải qua một quá trình dài, gồm nhiều bước
Trong quá trình này, có nhiều quan sát được các nhà khoa học ghi nhận. Có khi họ phát hiện ra rằng phương pháp mà họ tìm thấy có tiềm năng trong phòng thí nghiệm nhưng lại không có hiệu quả ở cơ thể động vật, hoặc có khi hoạt động hiệu quả ở cơ thể động vật, nhưng lại không có hiệu quả ở người. Họ có thể khám phá ra rằng một phương pháp điều trị có hiệu quả giải quyết các triệu chứng của bệnh hoặc chấn thương ở người, nhưng nó mang lại những rủi ro không thể chấp nhận được. Các nhà khoa học xem xét cẩn thận và nhân rộng công việc của họ, và mời các đồng nghiệp của họ làm điều tương tự. Do quá trình này mà các nghiên cứu khoa học trở thành y học thường kéo dài, nhưng nó được thiết kế để giảm thiểu tác hại của bệnh nhân và tối đa hóa khả năng hiệu quả.
Các nhà nghiên cứu tế bào gốc đang có những tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu về sự phát triển bình thường của cơ thể, tìm ra những gì sai sót trong sự hình thành bệnh tật và phát triển và thử nghiệm các phương pháp điều trị tiềm năng để giúp đỡ bệnh nhân. Tuy nhiên, họ vẫn còn nhiều điều phải tìm hiểu về cách các tế bào gốc hoạt động trong cơ thể và khả năng chữa bệnh của chúng.
Trong các số báo trước như chúng tôi đã thông tin, tế bào gốc đang trở thành xu hướng điều trị tiên tiến, hiệu quả và được quan tâm rất lớn ở tất cả các nước.
Tuy nhiên hiện nay có nhiều phòng khám trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng tuyên bố cung cấp các phương pháp điều trị bệnh bằng tế bào gốc nhưng thực tế lại không đưa ra được hoặc không dựa trên những minh chứng khoa học cho hoạt động của mình.
Tế bào gốc hứa hẹn sẽ giúp chúng ta hiểu và điều trị một loạt các bệnh, chấn thương và các tình trạng liên quan đến sức khỏe khác. Tiềm năng của tế bào gốc đã được chứng minh thông qua các hoạt động nghiên cứu và thử nghiệm trong một thời gian dài. Ví dụ tế bào gốc tạo máu trong điều trị các bệnh về máu đã được chứng minh là một liệu pháp cứu sống hàng ngàn trẻ em mắc bệnh bạch cầu; Tế bào gốc trung mô để điều trị các bệnh hoặc tổn thương cho xương, da cũng đã được đề cập. Các thử nghiệm lâm sàng quan trọng liên quan đến tế bào gốc đang được tiến hành cho nhiều tình trạng bệnh khác và các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục khám phá những cách thức mới để sử dụng tế bào gốc trong y học.
Vẫn còn rất nhiều điều cần nghiên cứu để hiểu về tế bào gốc. Tuy nhiên, các ứng dụng hiện tại của tế bào gốc trong điều trị bệnh đôi khi bị giới truyền thông hay nhưng người không hiểu đầy đủ về khoa học tế bào gốc thổi phồng. Mặt khác, do các phòng khám lâm sàng hay các tổ chức môi giới luôn tìm cách thu hút thêm bệnh nhân bị bệnh mãn tính hoặc các tổn thương nặng nên họ thổi phồng phương pháp điều trị. Người bệnh cần sáng suốt trong việc hiểu biết cả tiềm năng và hạn chế của tế bào gốc hiện nay, từ đó phát hiện ra một số thông tin sai lệch được lưu hành rộng rãi bởi các phòng khám có cung cấp các phương pháp điều trị tế bào gốc chưa được chứng minh.
Dưới đây là “Chín điều cần biết về điều tri bệnh bằng tế bào gốc” để bệnh nhân có thể đưa ra quyết định điều trị phù hợp.
1. Không nhiều bệnh sử dụng liệu pháp tế bào gốc để điều trị được chứng minh là an toàn và hiệu quả.
Danh sách các bệnh được điều trị tế bào gốc với các kết quả được chứng minh là có lợi vẫn còn rất ngắn. Ví dụ ghép tế bào gốc tạo máu hay ghép tủy xương để điều trị một số rối loạn về hệ thống miễn dịch và máu hoặc để xây dựng lại hệ thống máu sau khi điều trị một số loại ung thư là phương pháp điều trị bệnh bằng tế bào gốc sớm nhất và được xác định tốt nhất cũng như được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Tại Việt Nam, một số bệnh viện đang áp dụng liệu pháp này như Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương, Bệnh viện truyền máu-huyết học TP,HCM, Bệnh viện TƯQĐ 108, Bệnh viện Vinmec, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Một số tổn thương bệnh về xương, da và giác mạc có thể được điều trị bằng cách cấy ghép mô, và quá trình chữa bệnh phụ thuộc vào các tế bào gốc trong mô cấy ghép này. Các quy trình này được chấp nhận rộng rãi là an toàn và hiệu quả bởi cộng đồng y tế. Tuy nhiên, tất cả các ứng dụng khác dùng tế bào gốc trong điều trị các bệnh trên vẫn chưa có nhiều cơ sở dữ liệu chứng minh an toàn và hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng. Vì vậy, nếu phương pháp ghép tế bào gốc cho điều trị các bệnh này được giới thiệu thì nên xem đó là phương pháp có tính thử nghiệm cao.
Bệnh nhân nên cảnh giác với các phương pháp điều trị tế bào gốc được quảng cáo mà không có minh chứng khoa học, đặc biệt là minh chứng về sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước hoặc nếu có thì cần kiểm tra mình có phải là người nằm ngoài giới hạn của một thử nghiệm lâm sàng hợp pháp đã đăng ký hay chưa. Nghĩa là, một số bệnh được cơ quan quản lý cấp phép thử nghiệm điều trị lâm sàng nhưng giới hạn về số lượng bệnh nhân tham gia. Tuy nhiên, bệnh viện đó vẫn tiến hành điều trị cho bệnh nhân với số lượng vượt mức cho phép.
2. Bệnh nhân sẽ chịu thiệt thòi khi cố gắng thử điều trị bệnh bằng một phương pháp chưa được cấp phép.
Khi bệnh nhân đang mắc một căn bệnh mà ở thời điểm hiện tại, không có môt phương pháp điều trị nào hoặc có nhưng hiệu quả không có, thật dễ hiểu tại sao bệnh nhân “trong tình trạng không có gì để mất” thử một phương pháp mới, ngay cả khi phương pháp đó không được chứng minh bằng các minh chứng khoa học. Thật không may, trên thị trường luôn tồn tại những cơ sở khám chữa bệnh quảng cáo về các phương pháp điều trị bệnh bằng tế bào gốc nhưng họ lại chưa chứng minh được các cơ sở khoa học.
Khi bệnh nhân thử các phương pháp này, thường thì chi phí mà bệnh nhân phải trả có thể rất lớn. Ngoài chi phí điều trị, có thể phát sinh thêm phí chỗ ở hoặc các khoản phí khác. Trong hầu hết các trường hợp, các công ty bảo hiểm và các chương trình y tế của chính phủ không bao gồm chi phí điều trị cho các thử nghiệm kiểu này.
Nếu đơn vị cung cấp dịch vụ điều trị kèm theo gói du lịch (du lịch trị liệu), các chi phí khác có thể phát sinh bao gồm cả chi phí cho người thân, thời gian ở tại địa điểm điều trị nước ngoài và nhiều chi phí khác.
Mặt khác, các biến chứng tiềm tàng có thể tạo ra các vấn đề sức khỏe ngắn và dài hạn mới, làm cho tình trạng hoặc triệu chứng của bệnh nhân khó kiểm soát hơn.
Vì vậy, trước khi bệnh nhân quyết định thử nghiệm với một phương pháp điều trị mới mà chưa được chứng minh hoặc chưa được cấp phép, hãy đánh giá cẩn thận phương pháp điều trị đó.
3. Các loại tế bào gốc khác nhau phục vụ các mục đích khác nhau của cơ thể.
Trong cơ thể trưởng thành chứa nhiều loại tế bào gốc khác nhau với khả năng tái tạo dành riêng và đặc trưng cho mô đó. Các loại tế bào gốc này sở hữu khả năng sửa chữa tổn thương cụ thể và có hạn chế nhất định. Khi không có bất cứ tác động nào từ các thao tác trong phòng thí nghiệm, ở trong chính cơ thể, các tế bào gốc nội tại của từng mô chỉ có thể tạo ra các loại tế bào chức năng được tìm thấy trong chính mô mà chúng sống. Ví dụ các tế bào gốc tạo máu được tìm thấy trong tủy xương chỉ có thể tái tạo được các tế bào trong máu như hồng cầu, bạch cầu hay tiểu cầu. Hay các tế bào gốc thần kinh trong não chỉ có thể tạo ra các tế bào não. Một tế bào gốc tạo máu không thể đáp ứng được việc tạo ra tế bào thần kinh và ngược lại. Vì vậy, không có khả năng một loại tế bào đơn lẻ có thể được sử dụng để điều trị vô số bệnh không liên quan đến các mô hoặc cơ quan khác nhau.
Hãy cảnh giác với các tổ chức quảng cáo cung cấp phương pháp điều trị sử dụng loại tế bào gốc có nguồn gốc từ một vị trí trong cơ thể bệnh nhân nhưng lại không liên quan đến bệnh của bệnh nhân.
4. Sử dụng cùng một loại tế bào gốc với cùng một phương pháp để điều trị một cách có hiệu quả cho các loại tổn thương khác nhau là điều không thể
Bởi vì các tế bào gốc đặc trưng cho một số mô nhất định không thể tạo ra các tế bào được tìm thấy trong các mô khác mà không cần thao tác cẩn thận trong phòng thí nghiệm, nên rất khó có thể sử dụng cùng một loại tế bào gốc với cùng loại phương pháp để điều trị một cách có hiệu quả cho từng loại tổn thương mô và cơ quan trong cơ thể.
Ngày nay, các nhà khoa học đã có thể tạo ra một số loại tế bào chuyên biệt trong phòng thí nghiệm với tiềm năng biệt hóa cao, ví dụ như tế bào gốc phôi hay tế bào gốc đa tiềm năng cảm ứng (iPS). Những tế bào này có khả năng hình thành tất cả các loại tế bào khác nhau trong cơ thể và mang đến một cơ hội thú vị để phát triển các chiến lược điều trị mới. Tuy nhiên, tế bào gốc phôi và tế bào iPS không phải là ứng cử viên tốt để được sử dụng trực tiếp làm phương pháp điều trị, vì chúng cần có sự chỉ dẫn cẩn thận để trở thành các tế bào cụ thể, cần thiết để tái tạo mô bị bệnh hoặc bị hư hại. Nếu không được hướng dẫn đúng cách, các tế bào gốc này có thể phát triển quá mức và gây ra khối u khi tiêm vào bệnh nhân.
Đoàn kết nội bộ là một trong những yếu tố quan trọng để thực hiện thành công sứ mạng của Viện Tế bào gốc. Trên quan điểm đó, Viện Tế bào gốc đã triển khai chương trình “Tăng cường đoàn kết nội bộ và xây dựng văn hóa đơn vị” từ ngày 01/04/2021 cho tất cả cán bộ, nhân viên, người lao động, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh đang theo học tại Viện. Chương trình được triển khai thực hiện bởi các đơn vị Phòng Thông tin truyền thông và Tổ chức sự kiện, Phòng Khoa học Công nghệ và Quan hệ Quốc tế, Phòng Tổ chức hành chính và Công tác sinh viên, chi Đoàn cán bộ trẻ và Công Đoàn bộ phận Viện Tế bào gốc. Chương trình gồm 4 nội dung và 12 hoạt động được diễn ra xuyên suốt trong mỗi tháng, vào giờ nghỉ trưa hoặc sau giờ làm việc hành chính mỗi ngày.
Nội dung Đoàn kết tự hào truyền thống gồm các hoạt động như Chào cờ và sinh hoạt dướicờ được thực hiện vào mỗi sáng thứ hai hàng tuần. Ở hoạt động này, toàn thể cán bộ nhân viên, người lào động của Viện sẽ mặc lễ phục của Viện. Lãnh đạo Viện sẽ trình bày, thông tin các kết quả hoạt động tuần trước, cũng như được trao đổi và chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ trong tuần tiếp theo. Ngày thứ hai ấm áplà một trong những hoạt động nổi bật của nội dung này. Trong hoạt động này, Viện sẽ tổ chức mừng sinh nhật của người lao động với cách thức tổ chức ấm cúng cùng với lời chúc tuổi mới thành công, đã giúp khoảng cách giữa những thành viên trong Viện được rút ngắn hơn. Ngày thứ sáu đoàn kết, người lao động sẽ mặc đồng phục áo thun của Viện.
Ở nội dung Kết nối vùng miền, nổi bật là hoạt động Ngày thứ năm đặc sản, hoạt động này nhằm giới thiệu những đặc sản quê hương của từng người lao động trong Viện. Qua đây, người lao động vừa được nghe và được thưởng thức văn hóa ẩm thực đặc trưng của các vùng miền như Bình Thuận, Bình Định, Bình Phước, Hà Nội, Thái Nguyên hay Tp. Hồ Chí Minh. Cùng với hoạt động này, bản đồ quê hương được hoàn thiện nhân dịp 30/4, bản đồ đất nước bằng gỗ được định vị bằng những khuôn mặt của người lao động hiện diện trong phòng truyền thống của Viện nhằm đưa thông tin quê hương của người lao động trong Viện.
Ở nội dung Kết nối tri thức, hai hoạt động của Câu lạc bộ Tạp chí và Câu lạc bộ tiếng Anh cũng được triển khai vào mỗi thứ 3 và thứ 5 mỗi tuần thu hút đông đảo sinh viên cũng như người lao động tham gia, hoạt động này nhằm chia sẻ những công bố khoa học hấp dẫn, mới nhất liên quan đến lĩnh vực tế bào gốc cũng như y sinh tái tạo. Được thực hiện như một buổi ăn trưa vui vẻ nên những chia sẻ về kiến thức khoa học cũng dễ gần và tạo cảm giác thoải mái hơn cho người tham dự.
Hình 4. Thầy Nguyễn Trường Sinh với chia sẻ về Vai trò Exosome đối với kháng thuốc ung thư
Sức khỏe luôn là một yếu tố mà mỗi cá nhân luôn gìn giữ và rèn luyện, ở nội dung Kết nối sức mạnh này, nhằm đưa người lao động đoàn kết hơn các hoạt động thể dụng thể thao như ngày thứ năm khỏe mạnh đã được triển khai. Sau giờ làm việc, người lao động chạy bộ và rèn luyện sức khỏe cùng nhau. Bên cạnh đó các hoạt động chào mừng sinh nhật Viện lần 4 cũng diễn ra sôi nổi như Giải bóng đá giao hữu giữa các phòng ban trong viện.
Hình 5. Hoạt động ngày thứ năm khỏe mạnh
Viện Tế bào gốc đang xây dựng môi trường làm việc, nghiên cứu, giảng dạy hướng đến sự chuyên nghiệp, đạt được chất lượng cao trong hoạt động khoa học-công nghệ và đào tạo, và xây dựng một tập thể đoàn kết, với những nét đẹp “văn hóa Viện tế bào gốc” riêng.
Phan Lữ Chính Nhân – Phó Viện trưởng Viện Tế bào gốc
Headlines: Nghiên cứu trên động vật có giá trị lớn trong việc tìm hiểu, thu thập thông tin, tác động của thuốc, dược chất, tế bào … hay phương pháp điều trị lên động vật; mà từ đó dự đoán các tác động của chúng lên người. Do đó, theo thông lệ trong nghiên cứu y sinh, việc thử nghiệm trên động vật là một bước quan trọng trước khi những ứng viên dùng trong điều trị, chăm sóc sức khỏe kể cả làm đẹp được sử dụng trên người. Để có thể có những kết quả, thông tin thu thập được chính xác, động vật sử dụng phải đạt những tiêu chuẩn nhất định tùy theo từng nghiên cứu. Trước nhu cầu đó, Viện Tế bào gốc đã thành lập PTN Chăm sóc và Sử dụng động vật (Laboratory of Animal Care and Use – LACU) từ năm 2018 nhằm cung cấp động vật thí nghiệm cho các nghiên cứu của Viện và ngoài Viện. Đến nay, PTN LACU đã trở thành địa chỉ cung cấp động vật tin cậy cho các nhóm nghiên cứu ở Việt Nam.
Thí nghiệm trên động vật, cho đến hiện tại vẫn được xem là phương pháp cần thiết để thử nghiệm tác động thuốc, phát triển phương pháp điều trị và đánh giá độ an toàn trước khi sử dụng trực tiếp trên người. Trong thập kỷ qua, các thí nghiệm cận lâm sàng tại Việt Nam đang ngày càng được quan tâm. Ngoài các đơn vị có truyền thống lâu đời trong nghiên cứu trên động vật, rất nhiều đơn vị, phòng thí nghiệm trong lĩnh vực y sinh học đang đã chủ động mở rộng phạm vi nghiên cứu sang mảng cận lâm sàng, nhằm đẩy nhanh việc thử nghiệm điều trị các liệu pháp mới hay thuốc mới.
Kể từ khi thành lập Viện Tế bào gốc, ngoài việc phát triển công nghệ và sản phẩm thương mại, việc xây dựng và phát triển mảng thử nghiệm cận lâm sàng luôn được Ban lãnh đạo quan tâm. Do vậy năm 2018, Viện đã cho ra đời PTN Chăm sóc và Sử dụng Động vật (Laboratory of Animal Care and Use _LACU).
LACU là một trong các đơn vị chuyên môn của Viện Tế bào gốc, được xây dựng trên nền tảng nghiên cứu trên động vật hơn 10 năm của PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc và sau này là Viện Tế bào gốc. Trải qua hơn 2 năm thành lập, LACU đang ngày càng khẳng định vị thế của mình và trở thành địa chỉ cung ứng động vật thí nghiệm uy tín.
LACU không chỉ là PTN nghiên cứu động vật mà còn là nơi phát triển nguồn giống thuần chủng
Hơn 95% thử nghiệm trên động vật đang được tiến hành trên chuột. Chuột được sử dụng rất rộng rãi trong các nghiên cứu từ tạo mô hình đến thử nghiệm. Việt Nam là quốc gia có khí hậu cận nhiệt đới, môi trường lý tưởng để phát triển của chuột nhưng nguồn chuột sẵn có tại Việt Nam thường không đạt chuẩn cho nghiên cứu. Chuột được sử dụng trong các thí nghiệm phải đồng nhất về mặt di truyền, nhằm làm cho kết quả của các thử nghiệm có tính nhất quán. Hay hiểu theo một cách khác, chuột được sử dụng trong các thí nghiệm phải thuần chủng (inbred).
Chủng chuột thuần chủng tại Việt Nam đại đa số đều được nhập khẩu với chi phí cao và thời gian vận chuyển kéo dài. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập hiện tại, nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu và công bố, rất nhiều đơn vị và phòng thí nghiệm đều đang quan tâm đến các chủng chuột thuần chủng trong nghiên cứu của mình. Đón đầu xu thế trên, nhằm tự chủ nguồn chuột thuần chủng, LACU đã tiến hành nhập và tăng sinh đàn chuột thuần tại Việt Nam. Trong đó, hai chủng chuột đang được thử nghiệm đầu tiên là chuột nhắt Balb/C và chuột cống Wistar. Có thể, LACU không phải là đơn vị đầu tiên nhập và nhân giống thành công hai chủng này tại Việt Nam, nhưng LACU tự hào là đơn vị cho sinh sản và cung ứng lượng chuột thuần chủng với số lượng lớn, từ 1500-2000 con/năm, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu tại Viện và cung ứng bên ngoài
Ngoài đẩy mạnh chuyên môn trong nghiên cứu cận lâm sàng, việc phát triển nguồn giống thuần chủng là một trong các mục tiêu quan trọng trong năm năm tới của PTN. Động vật nói chung, chuột nói riêng, là tiêu chí tiên quyết trong nghiên cứu cận lâm sàng. Việc đạt chuẩn động vật sẽ là nền tảng cho các thử nghiệm đạt chuẩn.
Từ những cặp chuột đầu tiên đến trên 200 cặp chuột giống
Trong chỉ vỏn vẹn 2 năm, với 3 cặp chuột đầu tiên, hiện tại LACU đã có trên 200 cặp chuột giống sinh sản. Có thể nói, việc cho sinh sản trên các chủng chuột thuần gặp nhiều trở ngại. Do khác nhau về thời tiết khí hậu nơi xuất xứ và Việt Nam, mà việc ổn định lại trạng thái sinh lý chuột đòi hỏi nhiều nỗ lực trong cách chăm sóc và theo dõi. Ngoài ra, do đặc điểm thuần chủng (cận huyết) nên khả năng sinh sản của những chủng chuột này cũng là một giới hạn đáng lưu ý. Nếu như chủng chuột nhắt Việt Nam đẻ 9-12 con/lứa, thì ở các chủng chuột thuần chỉ đẻ được 1-4 con/lứa và còn có xu hướng bỏ con. Điều này gây trở ngại rất lớn cho việc nhân giống số lượng nhiều.
Với trách nhiệm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu tại Viện và cung ứng cho các đối tác bên ngoài ngày càng tăng, trong tương lai con số 200 cặp sẽ tiếp tục được nâng cao. Được sự quan tâm từ Ban lãnh đạo Viện Tế bào gốc, LACU dần mở rộng khu nuôi và cải thiện môi trường nuôi đạt chuẩn cho cả động vật và người thao tác.
Nâng cao số lượng song song với chất lượng, dần trở thành nơi cung ứng đáng tin cậy
PTN LACU luôn cố gắng tăng cao số lượng chuột để đáp ứng nhu cầu trong và ngoài Viện. Nếu như cách đây 5 năm, việc công bố dùng chuột Balb/C trong nghiên cứu là điều khó tiếp cận, thì hiện tại, tất cả các nghiên cứu trên động vật tại Viện, đều đang sử dụng các giống thuần.
Ngoài Viện tế bào gốc, rất nhiều đơn vị đang tin tưởng sử dụng nguồn chuột của LACU như là nguồn chuột an toàn và thuần chủng.
LACU là một trong các đơn vị chuyên môn đang từng bước hoàn thiện của Viện Tế bào gốc. Cùng với sự phát triển của Viện, LACU tin tưởng sẽ không ngừng phát triển và trở thành một trong các phòng thí nghiệm lớn vững về chuyên môn, đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn và mạnh về cung ứng, không chỉ là động vật mà còn là các thí nghiệm (dịch vụ) trên động vật.
Bùi Nguyễn Tú Anh – Trưởng PTN Chăm sóc và Sử dụng Động vật
Nhằm lưu giữ, chia sẻ những khoảnh khắc học tập, nghiên cứu … tại Viện Tế bào gốc của các bạn học sinh, sinh viên, học viên … và chào mừng 4 năm thành lập Viện Tế bào gốc (12/06/2017 – 12/06/2021) cuộc thi “Tế bào gốc trong tôi là …” lần 2 – năm 2021 đã quay trở lại.
Thời gian:
Thời gian tham dự gửi ảnh dự thi: từ 1/6/2021 đến 10/06/2021
Thời gian công bố kết quả: 12/06/2021
Thời gian trao giải thưởng: từ 15/06/2021 đến 19/06/2021
Đối tượng:
Là công dân Việt Nam, đang sống và làm việc tại Việt Nam.
Là thành viên của trang Viện Tế Bào Gốc trên Facebook. Để trở thành thành viên, người tham gia ấn vào nút LIKE của trang Viện Tế Bào Gốc
Cuộc thi không dành cho nhân viên của Viện Tế Bào Gốc
Các ảnh của thành viên tham gia sẽ được đăng lên fanpage Viện Tế Bào Gốc trên Facebook, album cuộc thi ảnh “Khoảnh khắc tế bào gốc” lần 2
Thành viên tham gia dự thi sẽ đi vận động bình chọn bằng cách thích vào ảnh dự thi.
BTC sẽ chọn ra 10 bài dự thi có lượng thích cao nhất để tiến hành chấm giải. Từ 10 bài dự thi này BTC sẽ tiếp tục chọn ra những bài có lời chia sẻ ý nghĩa nhất để tiến hành trao giải theo cơ cấu giải thưởng.
HÌNH THỨC
Hình ảnh tham gia dự thi phải đạt những điều kiện sau:
Ghi lại những khoảng khắc tham gia các hoạt động cộng đồng của Viện Tế Bào Gốc như Stem Cell Summer, Stem Cell Innovation, các hội thảo, buổi tham quan phòng thí nghiệm.
Ghi lại những khoảnh khắc, hình ảnh đẹp liên quan đến Viện Tế Bào Gốc
Ghi lại những khoảnh khắc tham gia nghiên cứu khoa học tại Viện Tế Bào Gốc
Mỗi thành viên chỉ được phép gửi tối đa 03 ảnh dự thi.
Tế bào là đơn vị nhỏ nhất của sự sống; do đó, tế bào đã trở thành đối tượng quan trọng trong nghiên cứu in vitro. Việc sử dụng tế bào, đặc biệt tế bào người và động vật, trong các nghiên cứu đánh giá, kiểm nghiệm, khảo sát tác động của thuốc, dược chất, chất thử, phương pháp mới lên sự thay đổi các đặc điểm sinh học của tế bào đã trở thành một kĩ thuật thường quy và phổ biến trong nhiều phòng thí nghiệm (PTN) về y-sinh học. Tuy nhiên, chất lượng tế bào sử dụng trong các nghiên cứu, đánh giá này vẫn chưa được các PTN kiểm soát và đảm bảo chất lượng cho các lần đánh giá. Do đó, các kết quả đánh giá không ổn định cao giữa các lần đánh giá. Viện Tế bào gốc thành lập SCI Cellbank với mục đích thiết lập, xác thực và đảm bảo chất lượng các dòng tế bào người và động vật để phục vụ cho các nghiên cứu của Viện và cung cấp nguồn tế bào này cho các nghiên cứu khác ở Việt Nam và trên thế giới.
Trong thế kỉ 21 và kỉ nguyên công nghệ 4.0, khoa học công nghệ nói chung và công nghệ y sinh nói riêng đang là mũi nhọn hàng đầu cho động lực phát triển toàn xã hội. Khoa học nghiên cứu và ứng dụng về tế bào trở thành trung tâm của các lĩnh vực như y học tái tạo, chẩn đoán và điều trị ung thư, các cơ chế của gen và di truyền học. Các công trình nghiên cứu xuất sắc, có độ tinh cậy cao là bước đầu quan trọng trong phát triển khoa học công nghệ liên quan tế bào này. Tuy nhiên trong nghiên cứu y sinh hiện nay, nguồn tế bào không được đồng nhất, thiếu hụt nghiêm trọng dẫn đến rất nhiều công trình nghiên cứu không thể lặp lại. Trong một khảo sát được Barker và cộng sự công bố trên tạp chí Nature vào năm 2016 đã chỉ ra hơn 70% trong tổng số 1576 nhà khoa học được khảo sát không thể lặp lại được kết quả của những người khác và hơn một nửa trong số đó không thể lặp lại kết quả của chính họ.
Việc thành lập các ngân hàng về tế bào với các tiêu chuẩn cơ bản đã được nhiều nước trên thế giới tiến hành, ví dụ, The American Type Culture Collection (ATCC), The European Collection of Authenticated Cell Cultures (ECACC). Các nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm về y sinh học ở Việt Nam cũng rất khó khăn trong việc lặp lại thí nghiệm khi không có một ngân hàng lưu tế bào được chuẩn hóa nhằm đảm bảo sự ổn định, đồng nhất của các lần thí nghiệm lặp lại. Trong đó, nguồn tế bào ban đầu này là tế bào, mô, hoặc gen được kiểm soát đầu vào, xác định các biểu hiện đặc trưng và biến đổi để phù hợp với các nghiên cứu. Ngoài ra, ngân hàng lưu trữ tế bào có thể phát triển, biến đổi các đặc tính của tế bào gốc ban đầu để làm đa dạng hơn nguồn tế bào có thể cung cấp.
Theo đó, để nghiên cứu khoa học của Viện Tế bào gốc và của quốc gia phát triển, cần phải thành lập và duy trì ngân hàng tế bào SCI Cellbank (SCI-CB), phản ánh đúng bản chất cần thiết phải có của ngân hàng này là:
Đảm bảo Nguồn tế bào tốt, ổn định, rõ ràng về nguồn gốc và luôn được lưu lại để sử dụng lặp lại sau đó.
Đảm bảo Nguồn tế bào đa dạng, biến đổi phù hợp với nghiên cứu khoa học ở điều kiện hiện tại của Viện Tế bào gốc và đất nước.
Mỗi năm, trên toàn quốc thực hiện hàng trăm công trình nghiên cứu y sinh nhất là trong lĩnh vực tế bào gốc. Thực tế cho thấy, mỗi nhóm nghiên cứu sẽ tự tìm nguồn tế bào đặc biệt là các nguồn tế bào thu nhận từ nuôi sơ cấp. Tuy nhiên, các nghiên cứu ngay từ đầu đã gặp khó khăn trong việc có được tế bào tế bào. Nguyên nhân chủ yếu có thể là:
Nguồn tế bào ban đầu khác nhau về chất lượng, số lượng, thậm chí là từ nhiều người khác nhau.
Trình độ của người thu nhận, nuôi cấy khác nhau dẫn đến tế bào sau khi thu nhận được có những đặc điểm không tương đồng
Điều kiện thực hiện khác nhau như dụng cụ, thiết bị sẽ tác động đến kết quả sau khi thu nhận được tế bào.
Nguồn tế bào rất ít và khó có thể nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài. Tế bào từ nước ngoài nhập về Việt Nam có giá thành rất cao và thời gian thường chậm trễ.
Các dòng tế bào nước ngoài hoặc thương mại đôi khi không phản ánh chính xác đáp ứng như các tế bào được phân lập từ mô trong nước.
Vì thế, các nghiên cứu y sinh luôn bị hạn chế trong vài dòng tế bào, lặp lại thí nghiệm khó khăn, biến động lớn, thậm chí không thể lặp lại thí nghiệm. Từ đó có thể thấy việc thành lập SCI-CB là cần thiết để thúc đẩy các nghiên cứu khoa học trong nước và Viện Tế bào gốc phát triển hơn, chính xác hơn.
Hơn thế nữa, sự phát triển của SCI-CB nhắm đến cung cấp nguồn mô toàn quốc sẽ là cầu nối chia sẽ nguồn tế bào giúp phát triển các thành tựu khoa học y sinh của các nghiên cứu trên khắp cả nước, là động lực nâng tầm uy tín cũng như trình độ Viện Tế bào gốc.
Do vậy, việc thành lập một ngân hàng lưu trữ và cung cấp tất cả các tế bào trong thí nghiệm cho Viện tế bào gốc và hướng đến cung cấp, chia sẽ nguồn tế bào cho các đơn vị ngoài là rất cần thiết. Vì vậy, sự ra đời của SCI Cellbank (SCI-CB) mang theo sứ mệnh góp phần phát triển khoa học trong nghiên cứu y sinh ở cấp Viện, quốc gia, khu vực và thế giới.
Đỗ Minh Nghĩa
Viện Tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Tp.HCM