Category: Bản tin

Các tin tức cập nhật của Viện Tế bào gốc.

  • Công nghệ tế bào gốc trong điều trị HIV

    Cho đến nay, có hai người nhiễm HIV đã được chữa khỏi nhờ liệu pháp ghép tế bào gốc mang gene đột biến. Vậy bản chất khoa học của vấn đề này là gì? Quá trình các nhà nghiên cứu tìm kiếm giải pháp này ra sao?

    Tìm ra mắt xích dễ tấn công nhất
    Để chữa được Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS) do nhiễm virus HIV (human immunodeficiency virus) – một loại virus gây suy giảm miễn dịch trên người gây ra, các nhà khoa học phải nghiên cứu để xác định rõ “tổ tiên” cũng như bản chất của virus này.
    HIV thuộc họ retrovirus có thể phá hủy các tế bào TCD4 trong cơ thể. HIV tương tự như một loại virus tìm thấy trong khỉ và vượn – được gọi là SIV. Để xác định “tổ tiên” của HIV, các nhà khoa học đã giải mã trình tự HIV của các chủng HIV khác nhau và so sánh chúng với các chủng SIV. Có 2 dạng HIV là HIV-1 và HIV-2. Dạng HIV-1 giống nhất với một SIV tìm thấy ở loài tinh tinh và HIV-2 rất giống với một SIV tìm thấy trong một loài khỉ mặt xanh đen. HIV-1 là loại thông dụng nhất của virus gây suy giảm miễn dịch trên người và được các chuyên gia nghiên cứu, phân tích nhiều nhất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, virus HIV-1 liên kết với đồng thụ thể CCR5. Còn HIV-2 thì không phổ biến, thấy nhiều nhất ở Đông Phi hoặc trên những người ở giai đoạn sau của tiến trình phát triển bệnh. Chúng liên kết với đồng thụ thể CXCR4.
    Cụ thể, khi bệnh nhân nhiễm HIV, virus này có thể thâm nhập được vào cơ thể nhờ vào thực hiện nhờ tương tác đặc trưng của vỏ bọc (Env) glycoprotein của virus với một phân tử bề mặt tế bào miễn dịch CD4 đóng vai trò là thụ thể chính và một thụ thể chemokine là CCR5 hoặc CXCR4.
    Do đó, để điều trị HIV, các nhà khoa học có thể nhắm tới mục tiêu là Env của virus, thụ thể CD4 hoặc đồng thụ thể CCR5/CXCR4.
    Vì các protein bao bọc virus có sự biến đổi đa dạng trong khi thụ thể CD4 và CCR5 hoặc CXCR4 ít biến đổi hơn nên các thụ thể này trở thành mục tiêu tốt hơn để ngăn chặn sự xâm nhập của virus. Tuy nhiên, làm giảm CD4 hay CXCR4 có thể để lại hậu quả không tốt cho chức năng hoặc sự trưởng thành và di cư của tế bào miễn dịch. Trong khi đó, những người thiếu chức năng CCR5 lại không có những khiếm khuyết về hệ miễn dịch rõ ràng mà lại làm giảm khả năng xâm nhiễm của HIV và làm chậm tiến triển thành AIDS. Trong tự nhiên, một số người xuất hiện khả năng kháng virus, không bị lây nhiễm ngay cả khi tiếp xúc với HIV nhiều lần. Ở những người này có một protein đồng thụ thể CCR5 có gene đột biến bị thiếu cặp base thứ 32. Tỉ lệ những người có gene đột biến CCR5 cao nhất ở người dân châu Âu (khoảng 9%), nhưng hiếm hoặc không xuất hiện ở những nơi khác.

    Nếu gây đột biến làm biến mất 1 cặp nucleotide 32 ở gene CCR5 thì HIV không thể xâm nhập vào tế bào.

    Liệu pháp gene và tế bào gốc trong điều trị HIV
    Timothy Ray Brown là người đầu tiên trên thế giới được chữa khỏi HIV. Khi học đại học ở Berlin năm 1995, Brown đã nhận được chẩn đoán dương tính HIV. Khi đó, anh bắt đầu dùng zidovudine liều thấp (AZT) – một loại thuốc kháng virus với khả năng ức chế virus tốt. Nhưng 10 năm sau đó, bác sĩ thông báo rằng anh bị bệnh bạch cầu tủy cấp tính (AML) và cần được điều trị tại bệnh viện. Brown đã chọn một bệnh viện tại Berlin.

    Timothy Brow – người đàn ông đầu tiên được điều trị AIDS thành công.


    Bác sĩ của anh ở Berlin, Gero Hütter, đã có ý tưởng sử dụng tủy xương từ một người hiến tặng với đột biến CCR5 Delta 32.
    Brown đã trải qua hóa trị liệu chuyên sâu để giết chết các tế bào ung thư trong cơ thể. Ngày 6/2/2007, Brown đã được cấy ghép tế bào tủy xương của người hiến tặng. Với sự đồng ý của bác sĩ Huetter, Brown đã ngừng uống thuốc điều trị HIV vào ngày cấy ghép. Sau 3 tháng, HIV không còn được tìm thấy trong máu của anh.
    Brown đã nhận được các tế bào gốc lần thứ hai vào tháng 2 năm 2008. Anh tiếp tục được kiểm tra các dấu hiệu HIV trong cơ thể bằng các xét nghiệm cực kỳ chính xác. Các nhà nghiên cứu đã không thể phát hiện HIV có khả năng sao chép ở bất cứ nơi nào trong cơ thể Brown.
    Sau Brown, bệnh nhân thứ 2 cũng được điều trị HIV bằng ghép tế bào gốc đột biến gene CCR5 đang cho thấy phản ứng tương tự như Brown. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng virus biến mất hoàn toàn khỏi máu bệnh nhân sau khi cấy ghép. Sau 16 tháng, bệnh nhân ngừng dùng thuốc kháng virus HIV. 18 tháng sau khi ngừng thuốc, vẫn không phát hiện dấu hiệu của virus.
    Những kết quả này đã đưa ra được minh chứng rằng người bị nhiễm HIV-1 có thể được điều trị khỏi hoàn toàn. Đồng thời thuốc kháng CCR5 trở thành liệu pháp cứu chữa hữu hiệu cho bệnh nhân nhiễm HIV-1. Để ngăn chặn chức năng CCR5, một số phân tử đã được nghiên cứu phát triển, bao gồm các hợp chất có trọng lượng phân tử thấp, chemokine, chất tương tự chemokine biến đổi N-termin, phân tử có nguồn gốc chemokine, peptide tổng hợp dựa trên chemokine và kháng thể đơn dòng kháng CCR5.
    Đến nay, các chiến lược trị liệu gene khác cũng đang được phát triển đó là sử dụng các intrakine và intrabody để ngăn chăn sự biểu hiện CCR5 và nuclease ngón tay kẽm (zinc finger-nuclease) trên bề mặt tế bào hoặc sử dụng các RNA can thiệp kích thước nhỏ (small interfering RNA), RNA đối mã (antisense RNA) hay ribozyme để làm giảm sự tổng hợp của các đồng thụ thể. Đây là các phương pháp mới có thể ngăn chặn sự xâm nhiễm của HIV.

    Cho đến nay, điều trị HIV bằng thuốc kháng virus đang là liệu pháp được khuyến cáo. Theo WHO, vào cuối năm 2012, gần một triệu người sống chung với HIV đã được điều trị kháng virus ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Trong số này, khoảng 640 000 là trẻ em. Ở các nước đang phát triển, trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2012, số lượng người được điều trị kháng virus đã tăng tới hơn 30 lần (với số người được điều trị khoảng 9.700.000 người vào năm 2012). Tuy nhiên, gần 19 triệu người khác, vẫn không được tiếp cận với thuốc kháng virus. 

    Điều trị kháng virus là một thành công không thể tranh cãi, nhưng vẫn có giới hạn như không phục hồi hoàn toàn sức khỏe, gây viêm mãn tính, rối loạn chức năng miễn dịch vô thời hạn trong thời gian điều trị; không ức chế hoàn toàn virus; Điều trị cần tuân thủ hằng ngày, có tác dụng phụ, tương tác thuốc phức tạp; Chưa đủ thuốc, dịch bệnh vẫn tiếp tục, việc sử dụng liệu pháp này có hiện tượng kháng, đặc biệt sau nhiều năm điều trị.

    TS.Vũ Bích Ngọc,Viện Tế bào gốc, Trường ĐH KHTN TP.HCM

    Nguồn:http://khoahocphattrien.vn/cong-nghe/cong-nghe-te-bao-goc-trong-dieu-tri-hiv/20190425095750262p1c859.htm?fbclid=IwAR3ZNCz6zCld48iT6I1qvjGB3oR-omLfor_hh3t7jjQ6syBo4o6NFkf0sS4

  • Giữa sự sống và cái chết: Các nhà khoa học đã có thể hồi sinh tế bào trong não lợn đã chết

    Trong một nghiên cứu nhằm đưa ra các giả định về sự chết não, các nhà khoa học đã đưa được một số tế bào trở lại với sự sống – hoặc gần như vậy. Nghiên cứu này có thể nói đã đặt ra những câu hỏi sâu sắc về ranh giới giữa sự sống và cái chết

    .Bộ não của lợn đã bị giết mổ không lấy lại được dù chỉ một phần ý thức: không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy tín hiệu điện phối hợp (chúng cần cho các chức năng cao hơn như nhận thức và trí thông minh). Tuy nhiên, trong một điều trị thử nghiệm, các mạch máu ở não lợn bắt đầu hoạt động và một số tế bào não đã bắt đầu trao đổi chất trở lại, thậm chí phản ứng với thuốc. Khi các nhà nghiên cứu thí nghiệm trên các lát mô não, họ phát hiện ra xung điện hóa ở một số tế bào thần kinh.
    Thí nghiệm còn sơ khai và không có ý nghĩa ngay lập tức trong điều trị chấn thương não ở người. Nhưng chính ý tưởng cho rằng các bộ phận của não có thể phục hồi sau khi chết lại mâu thuẫn với niềm tin vốn có trong y học về nội tạng và đặt ra những câu hỏi mang tính siêu nhiên.
    Nghiên cứu vừa mới được công bố đã xác nhận một lần nữa rằng chúng ta biết quá ít về não cũng như tình trạng “chết não”.
    Các nhà sinh học như Tiến sĩ Farahany đã thật sự bất ngờ và bị thu hút bởi phát hiện vừa được công bố trên tạp chí Nature. “Nó thật sự rất bất ngờ” Jonathan Moreno, một nhà đạo đức sinh học tại Đại học Pennsylvania cho biết. “Nếu có một vấn đề đáng được chú ý trong cộng đồng về đạo đức khoa học và y học, thì chính là nó.” Cho đến bây giờ, người ta vẫn cho rằng hoạt động của bộ não suy giảm nhanh chóng khi nguồn cung cấp máu bị cắt đứt. Các tế bào trở nên xấu đi, và các kết nối giữa các tế bào thần kinh bị vỡ vụn. Các nhà khoa học vẫn luôn tin rằng những thay đổi đó là không thể đảo ngược trừ khi máu được phục hồi nhanh chóng.
    Các nhà nghiên cứu tại Đại học Yale đã mua được đầu của 32 con lợn bị giết để lấy thịt. Sau đó, họ cưa hộp sọ và loại bỏ bộ não. Vào thời điểm thí nghiệm bắt đầu, bộ não đã không còn máu và được đặt ở nhiệt độ phòng trong bốn giờ. Nhóm nghiên cứu đã phát triển một hệ thống có tên BrainEx nhằm bơm một dung dịch vào bộ não còn nguyên vẹn của lợn. Họ hy vọng công nghệ này sẽ giúp chỉ ra các phương pháp điều trị mới cho đột quỵ, chấn thương sọ não và các bệnh như Alzheimer.

    .Bộ não của lợn đã bị giết mổ không lấy lại được dù chỉ một phần ý thức: không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy tín hiệu điện phối hợp (chúng cần cho các chức năng cao hơn như nhận thức và trí thông minh). Tuy nhiên, trong một điều trị thử nghiệm, các mạch máu ở não lợn bắt đầu hoạt động và một số tế bào não đã bắt đầu trao đổi chất trở lại, thậm chí phản ứng với thuốc. Khi các nhà nghiên cứu thí nghiệm trên các lát mô não, họ phát hiện ra xung điện hóa ở một số tế bào thần kinh.
    Thí nghiệm còn sơ khai và không có ý nghĩa ngay lập tức trong điều trị chấn thương não ở người. Nhưng chính ý tưởng cho rằng các bộ phận của não có thể phục hồi sau khi chết lại mâu thuẫn với niềm tin vốn có trong y học về nội tạng và đặt ra những câu hỏi mang tính siêu nhiên.
    Nghiên cứu vừa mới được công bố đã xác nhận một lần nữa rằng chúng ta biết quá ít về não cũng như tình trạng “chết não”.
    Các nhà sinh học như Tiến sĩ Farahany đã thật sự bất ngờ và bị thu hút bởi phát hiện vừa được công bố trên tạp chí Nature. “Nó thật sự rất bất ngờ” Jonathan Moreno, một nhà đạo đức sinh học tại Đại học Pennsylvania cho biết. “Nếu có một vấn đề đáng được chú ý trong cộng đồng về đạo đức khoa học và y học, thì chính là nó.” Cho đến bây giờ, người ta vẫn cho rằng hoạt động của bộ não suy giảm nhanh chóng khi nguồn cung cấp máu bị cắt đứt. Các tế bào trở nên xấu đi, và các kết nối giữa các tế bào thần kinh bị vỡ vụn. Các nhà khoa học vẫn luôn tin rằng những thay đổi đó là không thể đảo ngược trừ khi máu được phục hồi nhanh chóng.
    Các nhà nghiên cứu tại Đại học Yale đã mua được đầu của 32 con lợn bị giết để lấy thịt. Sau đó, họ cưa hộp sọ và loại bỏ bộ não. Vào thời điểm thí nghiệm bắt đầu, bộ não đã không còn máu và được đặt ở nhiệt độ phòng trong bốn giờ. Nhóm nghiên cứu đã phát triển một hệ thống có tên BrainEx nhằm bơm một dung dịch vào bộ não còn nguyên vẹn của lợn. Họ hy vọng công nghệ này sẽ giúp chỉ ra các phương pháp điều trị mới cho đột quỵ, chấn thương sọ não và các bệnh như Alzheimer.

    Nơ ron (xanh), tế bào hình sao (đỏ), nhân tế bào (xanh lục) trong bộ não của lợn. Hình trái là tế bào não để không 10 tiếng sau khi chết, hình bên phải là tế bào não trong thí nghiệm. Ảnh: Stefano G. Daniele và Zvonimir Vrselja, Đại học Y khoa Yale.


    Các nhà khoa học đã bơm dung dịch vào não lợn trong sáu giờ. Dung dịch này mang oxy đến mô và chứa các hóa chất cho phép các nhà khoa học theo dõi dòng chảy của nó bằng siêu âm. Ngoài ra, nó cũng chứa hóa chất nhằm ngăn chặn tín hiệu thần kinh. Các nhà khoa học lý giải rằng các tế bào não có thể được bảo quản tốt hơn – và quá trình trao đổi chất của chúng dễ dàng được khởi động lại – nếu các tế bào không hoạt động.
    Nhưng chính họ cũng không muốn có bất cứ cơ hội nào cho bộ não có thể tỉnh lại, dù điều này gần như không thể xảy ra. Nếu họ thấy bất cứ hoạt động nào của não cho thấy nó đang lấy lại ý thức, họ sẽ bơm thêm thuốc gây mê để ngăn chặn quá trình đó.
    Ngoại trừ các bộ não được bơm dung dịch BrainEx, các nhà khoa học cũng tiến hành kiểm tra những bộ não không được truyền dịch hoặc được truyền dịch giả. Não trong cả hai nhóm không có dấu hiệu hoạt động và các tế bào của chúng đã bị hủy hoại.
    Viện Y tế Quốc gia, nơi hỗ trợ nhóm nghiên cứu, đã tổ chức một cuộc họp ngắn để thảo luận về ý nghĩa của nó.
    Bác sĩ Nenad Sestan, nhà khoa học thần kinh tại Đại học Yale và đồng thời là người đứng đầu nghiên cứu, cho biết: “Đây không phải là bộ não sống, mà là bộ não có sự hoạt động của tế bào. Chúng tôi muốn kiểm tra xem các tế bào trong bộ não đã chết nhưng vẫn nguyên vẹn có thể phục hồi một số chức năng hay không”.
    Một số người dường như đã chết sau khi ở trong môi trường lạnh kéo dài đã được cấp cứu và bộ não của họ tiếp tục hoạt động, ông lưu ý. Não của một số bệnh nhân đột quỵ đã chết được 16 giờ với một cục máu đông chặn một phần của não đã lấy lại chức năng sau khi các bác sĩ loại bỏ cục máu đông này.
    “Đây là một tiến bộ thực sự”, Andrea Beckel-Mitchener, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu não bộ tại N.I.H cho biết. “Điều này chưa từng được thực hiện trước đây trong một bộ não còn nguyên vẹn của động vật có vú.
    Christine Grady, trưởng khoa đạo đức sinh học tại trung tâm lâm sàng của N.I.H. cho rằng công trình đã “lần đầu tiên cho thấy cơ hội nghiên cứu toàn bộ não của động vật có vú ở bên ngoài cơ thể sau khi chết.”
    Nó cho phép các nhà nghiên cứu lập bản đồ các tế bào và kết nối giữa chúng theo cách chưa từng có trước đây, bà nói thêm. Kỹ thuật này cũng có thể giúp mở rộng nghiên cứu về chấn thương não và sửa chữa tế bào, cũng như các loại thuốc ảnh hưởng đến não.
    Các vấn đề đạo đức được đặt ra bởi nghiên cứu về hồi sinh mô não là gần như chưa từng có trước đây. Trong số đó có câu hỏi về quyền lợi của động vật được dùng trong thí nghiệm.
    “Đây là một vấn đề hoàn toàn mới”, Stephen R. Latham, một nhà đạo đức sinh học tại Yale cho biết. “Đây không phải là nghiên cứu trên động vật vì bộ não đến với các nhà nghiên cứu từ một động vật đã chết.”
    Làm thế nào để các nhà đạo đức học có thể quyết định được liệu mục đích y học có đủ để biện minh cho sự đau đớn gây ra cho một bộ não vẫn còn “sống một phần” hay không?
    “Mặc dù không có xung điện trong não, nhưng chúng ta có thể khôi phục nó”, Tiến sĩ Farahany, một nhà sinh học và giáo sư luật tại đại học Duke và các chuyên gia khác cho biết. Không thể biết điều gì sẽ xảy ra nếu dung dịch được bơm vào não không chứa chất ức chế thần kinh.
    Bà cũng đặt ra câu hỏi: “Khi đối mặt với một bộ não mà tế bào vẫn còn hoạt động, các biện pháp bảo vệ thích hợp là gì? Chúng ta có thể coi nó như một con vật sống hay đối xử với nó như một con vật đã chết? Chúng ta nên nhìn nhận thế nào về “ý thức” của một con lợn?
    Nghiên cứu này cũng có ý nghĩa đối với việc hiến tạng.

    “Ở Pháp và Tây Ban Nha, nếu một người bị đau tim và mất máu, nhân viên dịch vụ y tế khẩn cấp cố gắng trong 30 phút hoặc lâu hơn để khởi động lại trái tim.” Stuart Youngner, nhà sinh học tại Đại học Case Western Reserve, cho biết. Nếu họ thất bại, nhân viên cấp cứu sẽ bảo quản các bộ phận nội tạng bằng máy trợ tim di động để bơm máu vào cơ thể, họ cũng chèn một quả bóng để ngăn máu lên não. Bằng cách đó, bệnh nhân có thể trở thành người hiến tạng vì não đã chết.
    “Nhưng khi giờ đây đã có dung dịch BrainEx, tại sao chúng ta không thử dùng nó thay vì cố gắng lấy nội tạng của họ?” Tiến sĩ Youngner đặt ra câu hỏi. Một hệ thống như BrainEx rất có thể sẽ khuyến khích các bác sĩ và nhân viên cấp cứu cố gắng nhiều hơn, trong thời gian dài hơn để hồi sức cho bệnh nhân. Kết quả rất có thể sẽ là có ít bệnh nhân chết não và ít người hiến tạng hơn.”
    Các nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh sẽ mất nhiều năm trước khi hồi sức não được thử nghiệm dù chỉ là sơ bộ ở người. Nhưng bác sĩ Farahany cho biết bà hoàn toàn có thể tưởng tượng một ngày nào đó hồi sức não sẽ trở thành một quy trình y tế tiêu chuẩn. Rất có thể điều đó sẽ được thực hiện ngay khi chúng ta còn đang sống.

    Hạnh Duyên

    Nguồn: New York Times

    http://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc-thuong-thuc/giua-su-song-va-cai-chet-cac-nha-khoa-hoc-da-co-the-hoi-sinh-te-bao-trong-nao-lon-da-chet/2019042509498794p160c921.htm?fbclid=IwAR1wY_sCTi3jAt1evEIlkjjjCd1M-Ff3li0PoaowJO1n-dHFTyl7akMSiDU

  • Hé mở khả năng khôi phục trí nhớ của bệnh nhân Alzheimer

    Nghiên cứu của ĐH Buffalo (Mỹ) công bố hồi đầu năm nay trên tạp chí Brain đưa ra một cách tiếp cận mới đối với bệnh Alzheimer bằng việc đảo ngược quá trình mất trí nhớ.

    Nghiên cứu chỉ ra một cách phục hồi chức năng nhớ của não nhờ tiếp cận ngoại di truyền.
    Nhóm nghiên cứu cho rằng bằng cách tập trung vào những tác nhân ngoại di truyền (Epigenetics, chỉ những thay đổi trên gene không phải do trình tự sắp xếp DNA), họ có thể đảo ngược sự suy giảm trí nhớ trên động vật thí nghiệm.
    Nghiên cứu được thử nghiệm trên các con chuột mang đột biến gene bệnh Alzheimer gia đình (chỉ việc trong gia đình có hơn một người mắc bệnh) và trên mô não chết của người mắc bệnh Alzheimer.
    Tác giả chính của bài báo là TS. Zhen Yan hiện đang làm việc tại Trường Y học và Khoa học y sinh Jacobs thuộc ĐH Buffalo (Mỹ).
    Alzheimer có mối liên quan đến các bất thường ngoại di truyền
    Bệnh Alzheimer là kết quả từ các nhân tố rủi ro đến từ cả gene và môi trường. Chúng kết hợp lại tạo nên các thay đổi ngoại di truyền, dẫn đến thay đổi biểu hiện gene. Tuy nhiên đến nay ít ai hiểu được quá trình này xảy ra như thế nào.
    TS. Yan cho biết những thay đổi ngoại di truyền của Alzheimer xảy ra chủ yếu ở giai đoạn muộn, khi bệnh nhân đã không thể nhớ được những thông tin mới học gần đó và có những biểu hiện suy giảm nhận thức mạnh.
    Một lý do chính dẫn đến sự suy giảm nhận thức là do cơ thể mất đi các thụ thể glutamate – thụ thể đóng vai trò quan trọng cho việc học và hình thành trí nhớ ngắn hạn.

    Việc suy giảm các thụ thể glutamate sẽ ảnh hưởng đến hoạt động trí nhớ của não

    “Chúng tôi thấy rằng với bệnh Alzheimer, các cấu trúc đơn vị con của thụ thể glutamate ở vỏ não trước bị sụt giảm, dẫn đến việc các tín hiệu kích thích bị gián đoạn, làm suy giảm hoạt động của trí nhớ”, TS. Yan cho hay.
    Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng việc mất thụ thể glutamate là kết quả của quá trình ngoại di truyền, hay còn gọi là quá trình ức chế sửa đổi protein histone. Nhóm nghiên cứu cho biết quá trình này gia tăng đối với bệnh nhânAlzheimer và được quan sát thấy trên cả chuột thí nghiệm và cả mô não chết của bệnh nhân Alzheimer
    TS. Yan giải thích rằng các bộ điều biến protein histone sẽ làm thay đổi cấu trúc của nhiễm sắc chất (chromatin, một tổ chức bậc thấp hơn DNA và nhiễm sắc thể). Những nhiễm sắc chất sẽ điều khiển cách thức vật liệu di truyền tiếp cận bộ máy phiên mã tế bào.
    “Sự điều chỉnh protein histone bất thường có liên hệ với bệnh Alzheimer chính là thứ kìm hãm biểu hiện gene, làm giảm thụ thể glutamate, dẫn đến việc mất chức năng của xi náp (synapse) và giảm trí nhớ,” TS. Yan nói
    Hướng đến các loại thuốc tiềm năng
    Hiểu được quá trình trên đã mở ra một hướng đi tiềm năng cho việc điều chế thuốc, bởi quá trình ức chế sửa đổi protein histone có thể được kiểm soát hoặc xúc tác bằng các enzyme.
    “Nghiên cứu này không chỉ cho thấy mối tương quan giữa những thay đổi ngoại di truyền và bệnh Alzheimer, mà còn cho thấy có thể điều chỉnh các rối loạn chức năng nhận thức bằng cách nhắm vào những enzyme ngoại di truyền để khôi phục thụ thể glutamate,” TS. Yan chia sẻ.

    TS. Zhen Yan, Trường Y học và Khoa học y sinh Jacobs của ĐH Buffalo, Mỹ.

    Các con chuột thí nghiệm mắc bệnh Alzheimer được tiêm 3 lần các loại hợp chất để kìm hãm enzyme kiểm soát quá trình ức chế sửa đổi protein histone.
    “Khi chuột thí nghiệm được tiêm chất kìm hãm enzyme này, chúng tôi thấy chức năng nhận thức của chúng được “cứu”. Các vật thí nghiệm được kiểm tra bằng các bài test đánh giá về chức năng nhớ nhận dạng, nhớ không gian và nhớ ngắn hạn.”
    “Chúng tôi khá ngạc nhiên khi thấy nhận thức của chúng được cải thiện mạnh mẽ” TS. Yan cho hay. “Đồng thời, chúng tôi cũng thấy biểu hiện khôi phục của các thụ thể glutamate và chức năng ở vỏ não trước.”
    Các chuyển biến tích cực đó kéo dài được một tuần.
    Những nghiên cứu tương lai sẽ tập trung vào việc phát triển những hợp chất có khả năng thâm nhập vào não hiệu quả và lâu dài hơn.
    Lợi thế ngoại di truyền
    TS. Yan giải thích rằng các rối loạn về não, chẳng hạn như bệnh Alzheimer, thường là các bệnh đa gene, trong đó rất nhiều gene liên quan đến quá tình và mỗi gene lại có tác động khiêm tốn.
    Việc tiếp cận ngoại di truyền khá thuận lợi bởi các quá trình ngoại di truyền kiểm soát không chỉ một mà còn nhiều gene.
    “Việc tiếp cận ngoại di truyền có thể điều chỉnh một mạng lưới các gene, do đó sẽ cùng khôi phục được các tế bào về trạng thái bình thường và khôi phục được chức năng phức tạp của não,” TS. Yan giải thích.
    “Chúng tôi đã cung cấp bằng chứng cho thấy sự kiểm soát ngoại di truyền bất thường trong biểu hiện và hoạt động của thụ thể glutemate đã đóng góp vào việc suy giảm nhận thức của bệnh Alzheimer. Nếu nhiều gene rối loạn của bênh Alzheimer được bình thường hóa bằng cách kiểm soát các enzyme biểu sinh cụ thể thì sẽ có khả năng khôi phục chức năng nhận thức và hành vi.”
    Nghiên cứu này được tài trợ 2 triệu USD (R01-AG056060) từ Viện Lão hóa, thuộc Viện y tế quốc gia (Mỹ), chuyên tập trung vào các chiến lược điều trị mới cho bệnh Alzheimer.
    Nguồn: ĐH Buffalo
    Ngô Hà (Theo ĐH Buffalo, Mỹ)

    http://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc/he-mo-kha-nang-khoi-phuc-tri-nho-cua-benh-nhan-alzheimer/20190504112551648p1c160.htm

  • Ghép tế bào gốc từ dây rốn: Điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

    Tế bào gốc, đặc biệt là tế bào gốc trung mô có những ưu điểm vượt trội trong điều trị căn bệnh đang là nguyên nhân gây tử vong thứ tư ở Việt Nam này. Quy trình nghiên cứu và điều trị hoàn toàn ở Việt Nam.

    Nguồn ảnh: Bệnh viện Vạn Hạnh

    Quy trình nghiên cứu “made in Vietnam”


    Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là một dạng bệnh liên quan đến phản ứng viêm bất thường của đường thở và nhu mô phổi bởi các phần từ và khí độc hại, ảnh hưởng đến đường thở của hệ hô hấp. COPD đang tăng trưởng nhanh chóng trong thời gian gần đây và trở thành nguyên nhân gây tử vong xếp thứ 4 ở Việt Nam và trên toàn thế giới (theo khảo sát năm 2018 của Viện Đo lường và đánh giá sức khỏe – IMHE thuộc Đại học Washington ở Seattle, Mỹ). Nhiều phương pháp điều trị khác nhau đã được thực hiện như dùng thuốc, thống khí hỗ trợ, phẫu thuật giảm thể tích phổi, các phương pháp phục hồi chức năng khác. Tuy nhiên các phương pháp điều trị này vẫn không thể làm giảm sự tiến triển của bệnh.


    Tế bào gốc, đặc biệt là tế bào gốc trung mô có những ưu điểm độc quyền mà cho đến nay nhiều nghiên cứu đã chỉ ra có thể là lựa chọn mới trong điều trị căn bệnh này. Trong đó, tế bào gốc trung mô (MSC) từ dây rốn là một trong những nguồn đang thu hút được nhiều nhà nghiên cứu tập trung khai thác. Chúng có thể biệt hoá thành nhiều dòng tế bào chức năng khác nhau và có khả năng tiết các yếu tố cận tiết đóng vai trò trong điều biến hệ miễn dịch. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tế bào gốc trung mô có thể điều biến được hệ miễn dịch thích nghi và hệ miễn dịch bẩm sinh bằng cách ức chế sự tăng sinh của tế bào T và tế bào B; ức chế sự trưởng thành của các tế bào tua (DC), ức chế sự tăng sinh và tác động gây độc của tế bào giết tự nhiên (NK); thúc đẩy sự tái tạo của tế bào Treg thông qua các yếu tố hòa tan như transforming growth factor-β1 (TGF-β1), prostaglandin E2 (PGE2), hepatocyte growth factor (HGF), indoleamine-pyrrole 2,3-dioxygenase (IDO), nitric oxide (NO) and interleukin-10 (IL-10), và cơ chế tương tác giữa tế bào với tế bào. Với đặc tính điều biến miễn dịch, chúng được sử dụng một cách có hiệu quả trong điều trị các bệnh liên quan đến hệ miễn dịch.


    Trong điều trị bệnh lý COPD, một báo cáo phân tích trên 20 thử nghiệm tiền lâm sàng cấy ghép MSC cho thấy MSC đã kích thích quá trình sửa chữa mô phổi và cải thiện đáng kể chức năng của phổi. Cơ chế điều trị chính của loại tế bào này là cải thiện triệu chứng viêm của đường hô hấp.


    Trong nghiên cứu do nhóm bác sĩ đến từ Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh thực hiện, loại tế bào được lựa chọn là tế bào gốc từ dây rốn người. Tế bào này được thu nhận, phân lập và xử lý theo quy trình công nghệ của nhóm nghiên cứu đến từ Viện Tế bào gốc, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM, đứng đầu là PGS.TS. Phạm Văn Phúc thực hiện. Loại tế bào này được xử lý đặc biệt và được đặt tên là ModultistTM. Tế bào sau khi phân lập được đông lạnh cho đến khi bệnh nhân có nhu cầu cấy ghép. Trước khi ghép, tế bào đông lạnh được hoạt hoá bằng cách rã đông và nuôi cấy qua đêm để loại bỏ các tế bào chết (các tế sống sẽ bám trên bề mặt dụng cụ nuôi cấy, tế bào sống không bám được sẽ bị loại bỏ khi thay môi trường). Qua ngày hôm sau, tế bào sống được thu nhận và sử dụng cho cấy ghép.


    Nhiều ưu điểm so với các phương pháp chữa trị khác

    Bệnh nhân được chẩn đoán COPD ở giai đoạn 4 dựa trên xét nghiệm đo thể tích thở gắng sức trong giây đầu (FEV1) sẽ được ghép tế bào gốc. Sau khi ghép tế bào, bệnh nhân được theo dõi và đánh giá lại triệu chứng sử dụng thang điểm CAT (COPD Assessment Test) và mMRC (modified Medical Research Council) để xác định tình trạng sức khoẻ.


    Bệnh nhân đầu tiên tham gia nghiên cứu là một người đàn ông sinh năm 1959. Trước khi điều trị, FEV1 của ông ở mức thấp (20,8%) trong khi thang CAT và mMRC cao (lần lượt là 28 và 2). Người bệnh này được ghép sản phẩm ModultistTM với liều 1 triệu tế bào/1kg thể trọng bệnh nhân bằng cách truyền tĩnh mạch tay. Tế bào được hòa trong 250 mL dung dịch nước muối sinh lý NaCl 0,9%. Tốc độ truyền 30-45 phút. Bệnh nhân được theo dõi tại bệnh viện trong vòng 1 tuần sau khi ghép để theo dõi bất cứ phản ứng phụ có liên quan đến sự viêm nhiễm. Sau khi xuất viện, bệnh nhân được theo dõi ngoại trú trong 5 tháng. Thang CAT và mMRC được đánh giá sau 1, 3 và 5 tháng. Tất cả các phương pháp truyền thống được áp dụng và duy trì trong suốt thời gian này. Kết quả cho thấy thang CAT giảm đáng kể từ 28 trước khi ghép xuống còn 9,7 và 8 ở thời điểm 1, 3 và 5 tháng. Tuy nhiên, mức mMRC vẫn duy trì ở mức 2 kể cả trước và sau khi ghép. Trong khi đó, FEV1 tăng nhẹ sau khi ghép, đạt mức 22,8% sau 3 tháng và tang lên 23,1% sau 5 tháng ghép. Bệnh nhân cảm thấy sức khoẻ tốt hơn và giảm đáng kể các đợt cấp COPD.


    Đối với bệnh nhân thứ 2 là một phụ nữ sinh năm 1938, trước khi điều trị, FEV1 ở mức thấp (59,6%) trong khi thang CAT và mMRC cao (lần lượt là 18 và 4). Sau khi điều trị, chỉ số CAT giảm xuống còn 5, FEV1 tăng ở mức 72,4% từ tháng thứ 3 và chỉ số mMRC giảm xuống còn 2 sau 1 tháng. Không có bất cứ tác dụng phụ nào xuất hiện sau khi ghép. Đặc biệt, số đợt tái phát cấp COPD giảm đáng kể, từ 13 lần mỗi năm giảm xuống còn 0 trong suốt 5 tháng theo dõi.


    Từ kết quả thử nghiệm điều trị trên đây, cho thấy đây là liệu pháp đầy hứa hẹn cho điều trị bệnh COPD. Tế bào gốc từ dây rốn được xử lý theo công nghệ của Viện tế bào gốc đã cho thấy hiệu quả tích cực đối với việc cải thiện tình trạng bệnh của các bệnh nhân COPD. Hiện nay, bệnh viện đang tiếp tục thử nghiệm lâm sàng trên số lượng bệnh nhân lớn hơn.

    Với đặc tính điều biến miễn dịch, chúng được sử dụng một cách có hiệu quả trong điều trị các bệnh liên quan đến hệ miễn dịch.
    Trong điều trị bệnh lý COPD, một báo cáo phân tích trên 20 thử nghiệm tiền lâm sàng cấy ghép MSC cho thấy MSC đã kích thích quá trình sửa chữa mô phổi và cải thiện đáng kể chức năng của phổi. Cơ chế điều trị chính của loại tế bào này là cải thiện triệu chứng viêm của đường hô hấp.


    Trong nghiên cứu do nhóm bác sĩ đến từ Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh thực hiện, loại tế bào được lựa chọn là tế bào gốc từ dây rốn người. Tế bào này được thu nhận, phân lập và xử lý theo quy trình công nghệ của nhóm nghiên cứu đến từ Viện Tế bào gốc, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM, đứng đầu là PGS.TS. Phạm Văn Phúc thực hiện. Loại tế bào này được xử lý đặc biệt và được đặt tên là ModultistTM. Tế bào sau khi phân lập được đông lạnh cho đến khi bệnh nhân có nhu cầu cấy ghép. Trước khi ghép, tế bào đông lạnh được hoạt hoá bằng cách rã đông và nuôi cấy qua đêm để loại bỏ các tế bào chết (các tế sống sẽ bám trên bề mặt dụng cụ nuôi cấy, tế bào sống không bám được sẽ bị loại bỏ khi thay môi trường). Qua ngày hôm sau, tế bào sống được thu nhận và sử dụng cho cấy ghép.


    Nhiều ưu điểm so với các phương pháp chữa trị khác


    Bệnh nhân được chẩn đoán COPD ở giai đoạn 4 dựa trên xét nghiệm đo thể tích thở gắng sức trong giây đầu (FEV1) sẽ được ghép tế bào gốc. Sau khi ghép tế bào, bệnh nhân được theo dõi và đánh giá lại triệu chứng sử dụng thang điểm CAT (COPD Assessment Test) và mMRC (modified Medical Research Council) để xác định tình trạng sức khoẻ.


    Bệnh nhân đầu tiên tham gia nghiên cứu là một người đàn ông sinh năm 1959. Trước khi điều trị, FEV1 của ông ở mức thấp (20,8%) trong khi thang CAT và mMRC cao (lần lượt là 28 và 2). Người bệnh này được ghép sản phẩm ModultistTM với liều 1 triệu tế bào/1kg thể trọng bệnh nhân bằng cách truyền tĩnh mạch tay. Tế bào được hòa trong 250 mL dung dịch nước muối sinh lý NaCl 0,9%. Tốc độ truyền 30-45 phút. Bệnh nhân được theo dõi tại bệnh viện trong vòng 1 tuần sau khi ghép để theo dõi bất cứ phản ứng phụ có liên quan đến sự viêm nhiễm. Sau khi xuất viện, bệnh nhân được theo dõi ngoại trú trong 5 tháng. Thang CAT và mMRC được đánh giá sau 1, 3 và 5 tháng. Tất cả các phương pháp truyền thống được áp dụng và duy trì trong suốt thời gian này. Kết quả cho thấy thang CAT giảm đáng kể từ 28 trước khi ghép xuống còn 9,7 và 8 ở thời điểm 1, 3 và 5 tháng. Tuy nhiên, mức mMRC vẫn duy trì ở mức 2 kể cả trước và sau khi ghép. Trong khi đó, FEV1 tăng nhẹ sau khi ghép, đạt mức 22,8% sau 3 tháng và tang lên 23,1% sau 5 tháng ghép. Bệnh nhân cảm thấy sức khoẻ tốt hơn và giảm đáng kể các đợt cấp COPD.


    Đối với bệnh nhân thứ 2 là một phụ nữ sinh năm 1938, trước khi điều trị, FEV1 ở mức thấp (59,6%) trong khi thang CAT và mMRC cao (lần lượt là 18 và 4). Sau khi điều trị, chỉ số CAT giảm xuống còn 5, FEV1 tăng ở mức 72,4% từ tháng thứ 3 và chỉ số mMRC giảm xuống còn 2 sau 1 tháng. Không có bất cứ tác dụng phụ nào xuất hiện sau khi ghép. Đặc biệt, số đợt tái phát cấp COPD giảm đáng kể, từ 13 lần mỗi năm giảm xuống còn 0 trong suốt 5 tháng theo dõi.


    Từ kết quả thử nghiệm điều trị trên đây, cho thấy đây là liệu pháp đầy hứa hẹn cho điều trị bệnh COPD. Tế bào gốc từ dây rốn được xử lý theo công nghệ của Viện tế bào gốc đã cho thấy hiệu quả tích cực đối với việc cải thiện tình trạng bệnh của các bệnh nhân COPD. Hiện nay, bệnh viện đang tiếp tục thử nghiệm lâm sàng trên số lượng bệnh nhân lớn hơn.


    Chú thích:
    ModulatistTM là tế bào được sản xuất từ mô dây rốn, có xử lý trong quá trình nuôi cấy, biểu hiện khả năng điều biến miễn dịch mạnh hơn so với tế bào gốc từ mô mỡ và tủy xương. Chúng có thể ức chế tế bào T, B và NK thông qua nhiều cơ chế khác nhau. ModulatistTM có thể kiểm soát viêm cũng như các phản ứng miễn dịch bên trong bệnh nhân.
    Viêm được cho là quá trình chính góp phần vào COPD, nên khả năng của các tế bào gốc có nguồn gốc từ dây rốn (Modulatist ™) trong điều chỉnh các triệu chứng viêm là rất khả thi.

    TS. Vũ Bích Ngọc

    Nguồn: http://khoahocphattrien.vn/suc-khoe/ghep-te-bao-goc-tu-day-ron-dieu-tri-benh-phoi-tac-nghen-man-tinh/2019022210342860p1c784.htm

  • Các em bé chỉnh sửa gene có thể bị giảm tuổi thọ

    Nghiên cứu về một nửa triệu người có khả năng miễn dịch với HIV cho thấy, tuổi thọ của họ có thể ngắn hơn.

    Các nhà khoa học đã chỉnh sửa hệ gene cả các bé gái sinh đôi trong nỗ lực giúp các em có khả năng kháng bệnh HIV có thể đã tình cờ làm giảm tuổi thọ tự nhiên của các em. Những người có hai bản sao gene CCR5 bị vô hiệu hóa – vốn bảo vệ họ trước khả năng lây nhiễm HIV – đều có 21% khả năng qua đời trước tuổi 76, khi so sánh với người có ít nhất một bản sao gene này, theo một nghiên cứu xuất bản vào ngày 3/6/2019 trên Nature Medicine. Nguyên nhân về sự khác biệt này vẫn chưa được biết rõ.

    Các phân tích này dựa trên dữ liệu di truyền và dữ liệu y tế của gần 410.000 người ghi tên trong dự án nghiên cứu UK Biobank. Các tác giả nghiên cứu đã không có đủ dữ liệu để ước tính các xác suất vượt quá mốc 76 tuổi.

    He Jiankui, nhà lý sinh học ở đại học KH&CN miền Nam ở Thâm Quyến, Trung Quốc đã phải đối mặt với sự chỉ trích của chính đồng nghiệp trong nước sau khi tiết lộ đã giúp sinh những em bé chỉnh sửa gene đầu tiên trên thế giới vào tháng 11/2018. Các nhà khoa học và đạo đức học vẫn đang vật lộn với những gợi ý của việc thay đổi các gene của một cá nhân theo các cách có thể ảnh hưởng tới các thế hệ tương lai – những gì còn chưa từng có tiền lệ trước đây.

    Và nhiều nhà khoa học đã dấy lên câu hỏi về sự lựa chọn gene của He. Mã hóa CCR5 một protein cho phép virus HIV xâm nhập các tế bào miễn dịch. Cắt đi phần gene có thể làm bất hoạt nó — bắt chước một đột biến xảy ra một cách tự nhiên, CCR5-Δ32, để kháng lại HIV. Các nhà nghiên cứu đã lo ngại về bằng chứng cho rằng biến dị CCR5-Δ32 khiến con người mẫn cảm nhiều hơn với ảnh hưởng từ lây nhiễm cúm và virus vùng Tây sông Nile – một loại virus RNA sợi đơn gây sốt Tây sông Nile.

    Nghiên cứu gần nhất càng khiến người ta thêm nghi ngờ về sự “khôn ngoan” của việc làm bất hoạt loại gene này nhằm chống lại HIV, Philip Murphy – một nhà miễn dịch học phân tử tại Viện nghiên cứu dị ứng và các bệnh truyền nhiễm quốc gia Mỹ ở Bethesda, Maryland, nhận xét. “Nếu anh cho rằng, chẳng cần sống lâu, chỉ cần vượt qua một độ tuổi nào đó thì đơn giản, việc chỉnh sửa một gene đặc biệt xứng đáng là rủi ro có thể chấp nhận được”. Nhưng với những khả năng điều trị HIV hiện hành thì nhiều người có thể “chung sống hòa bình với loại virus này tới già”.

    Đột biến bí ẩn

    Vào thời điểm He công bố kết quả của mình, nhà sinh học tiến hóa April Wei của trường đại học California, Berkeley, đã phát triển một công cụ tính toán có khả năng tìm ra mối liên hệ những đột biến di truyền với tuổi thọ, sử dụng dữ liệu từ UK Biobank. Chị và nhà di truyền học Rasmus Nielsen, cũng làm việc tại Berkeley, quyết định kiểm tra công cụ này với CCR5. “Với chúng tôi, đây thực sự là một gene thú vị,” Wei nói.

    Tất cả hệ gene của động vật có vú chứa một phiên bản CCR5, nó cho thấy vai trò quan trọng của gene này về mặt sinh học của loài động vật này. Đột biến CCR5-Δ32 cũng là điểm chung cả nhiều quần thể người, khoảng 11% người Anh mang đột biến của cả hai bản sao gene CCR5, và tỷ lệ đó thậm chí còn cao hơn trong các quần thể người Scandinavia.

    Các đột biến làm xóa đi phần gene chức năng hiếm khi phổ biến. Tỷ lệ lưu hành củaCCR5-Δ32 cho thấy, ít nhất trong một số trường hợp, sự bất hoạt của gene CCR5 có thể đem đến một lợi thế tiến hóa, Murphy nói. Nhưng các nhà khoa học chưa biết điều đó có ý nghĩa gì.

    Mối liên hệ rõ ràng giữa đột biến CCR5-Δ32 và tuổi thọ hết sức thú vị nhưng không đáng ngạc nhiên, theo David Melzer – một nhà dịch tễ học tại trường đại học Exeter, Anh, người vẫn sử dụng dữ liệu từ Biobank UK để nghiên cứu về sự trường thọ.  Một trong những chỉ thị di truyền mà Wei và Nielsen dùng để kiểm tra hình thức đột biến của CCR5 có liên quan đến những điều kiện tự miễn dịch – như bệnh Crohnvà tiểu đường type 1 – có thể làm tuổi đời của một cá nhân thấp hơn. Nhưng Melzer cho biết, bằng chứng cho mối liên hệ giữa việc xóa CCR5 và tuổi đời không mật thiết bằng việc có sự ảnh hưởng của nhiều gene khác với sự trường thọ.

    Và Murphy nói, nghiên cứu này còn bị giới hạn bởi các dữ liệu của nó từ những người ở độ tuổi 41 hoặc nhiều hơn, và có thể đã loại trừ cả những người đã qua đời ở lứa tuổi thấp hơn, hoặc với người ốm và không tham gia vào UK Biobank. Nhưng ông cũng công nhận, các nhà nghiên cứu đã “thực hiện được một nghiên cứu giá trị với lượng thông tin có sẵn”.

    Những rủi ro chưa lường trước

    VớiWei, những khám phá của nghiên cứu này củng cố thêm ý tưởng là sự bất hoạt gene CCR5 ở phôi người là một ý tưởng tồi. “Tôi nghĩ, nó thực sự khó chứng minh được là một gene có lợi ích vô điều kiện và đó là những gì cần được cân nhắc. Thậm chí nếu chúng tôi giải quyết được những vấn đề kỹ thuật và đạo đức, chúng tôi có thể chỉnh sửa được một gene thì thực sự chúng tôi cũng không biết rõ nó có ảnh hưởng xấu đến con người không”.

    Alcino Silva, một nhà khoa học thần kinh tại trường đại học California, Los Angeles, đồng ý với nhận định này. “Vài thời điểm này, thật điên rồ khi đi trước và bắt đầu thực hiện trên những gene đột biến của người. Dù có ý định tốt và thành thạo việc thiết kế các điều chỉnh gene nhưng chúng ta vẫn đơn giản là không đủ hiểu biết để thực hiện công việc ngay thời điểm này”. He có thể thích thấy nhiều nghiên cứu trên những người có gene CCR5 không hoạt động, vốn có thể giúp anh ta hiểu vì sao chức năng của nó có liên kết với tuổi thọ.

    Nhóm nghiên cứu của Silva đã thấy là việc cô lập gene CCR5 dường như giúp con người phục hồi sau đột quỵ nhanh hơn, và cải thiện trí nhớ lẫn khả năng học tập trên chuột. Nhưng anh cho rằng bất hoạt gene này cũng giống như việc loại bỏ phanh trên ô tô. “Xe có thể đi nhanh hơn,” Silva nói, nhưng rủi ro cũng có thể tới ở mức độ cao hơn, giống như cứ mày mò với sự phát triển của não có thể là nguyên nhân gây ra bệnh tật. “Tiến hóa đã phải diễn ra trong thời gian dài và chọn lọc rất nhiều mới có thể đem lại cho chúng ta những gene mà chúng ta cần,” anh nói.

    Anh Vũdịch

    Nguồnhttps://www.nature.com/articles/d41586-019-01739-w

    http://tiasang.com.vn/-khoa-hoc-cong-nghe/Cac-em-be-chinh-sua-gene-co-the-bi-giam-tuoi-tho-16396

  • Cool PRP- công nghệ sẵn sàng chuyển giao của Viện Tế bào gốc

    Cool PRP- công nghệ sẵn sàng chuyển giao của Viện Tế bào gốc

    Hiện nay, với tốc độ tăng trưởng và tiến bộ nhanh chóng của kinh tế-xã hội đi kèm với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ thì các công nghệ phục vụ cho chăm sóc sức khoẻ và làm đẹp cho con người cũng không nằm ngoài guồng tăng trưởng đó. PRP là một trong những công nghệ ưu việt mang đến nhiều lợi ích trong trong y học như khôi phục và cải tạo những tổn thương của cơ thể cũng như mang lại nhiều giá trị cho ngành công nghiệp thẩm mỹ hiện đang bùng nổ với lợi nhuận mang lại cao.

    Vậy PRP là gì ?

    PRP là từ viết tắt thuật ngữ tiếng Anh Platelet Rich Plasma, nghĩa là huyết tương giàu tiểu cầu. Tiểu cầu là một thành phần của máu với một lượng nhất định (ngưỡng sinh lý bình thường). Huyết tương giàu tiểu cầu là huyết tương chứa một lượng tiểu cầu cao hơn ngưỡng sinh lý bình thường. Thông thường, PRP sẽ chứa lượng tiểu cầu trong một thể tích huyết tương cao hơn từ 2-8 lần lượng tiểu cầu có trong một thể tích huyết tương bình thường.

    Tiểu cầu thực chất là các mảnh vỡ từ tế bào có nhân khổng lồ. Chúng chứa hơn 30 loại yếu tố tăng trưởng khác nhau; trong đó có 5 loại chính là: Yếu tố tăng trưởng từ tiểu cầu (PDGF), yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (FGF), Yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1), yếu tố tăng trưởng biểu mô (EGF), yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF). Năm yếu tố tăng trưởng này có vai trò quan trọng trong việc chữa lành vết thương, tái tạo các vùng mô bị tổn thương. PRP chính là nguồn chứa các yếu tố tăng trưởng có nồng độ cao. Vì thế PRP có thể kích thích mạnh mẽ quá trình lành hoá vết thương, tái tạo các mô bị tổn thương.

    Công nghệ Cool PRP ?

    Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại kit thương mại để thu nhận PRP sử dụng trong y học và thẩm mỹ, tuy nhiên những sản phẩm này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về độ an toàn, sản lượng, hoạt tính và độ tinh sạch của PRP sau khi thu nhận. 

    Với thế mạnh là đội ngũ các nhà khoa học giỏi và các chuyên gia được đào tạo bài bản trong và ngoài nước, Viện Tế Bào Gốc đã cho ra đời bộ sản phẩm Cool PRP với tính năng vượt trội về độ an toàn, hoạt tính sinh học cao cũng như tỉ lệ thu hồi tiểu cầu đạt đến 95% và độ tinh sạch của tiểu cầu đạt đến 98%. 

    Hình 1. Các thế mạnh của Cool PRP.

    Khác với công nghệ tách PRP thông thường, Cool PRP tách PRP trong điều kiện nhiệt độ mát. Nhiệt độ của máu sau khi thu nhận khoảng 37 độ C, và nhiệt độ này sẽ giảm dần đến khi bằng nhiệt độ môi trường. Nhiệt độ môi trường biến động theo giờ, theo mùa…làm cho chất lượng PRP thay đổi. Công nghệ Cool PRP sẽ làm máu sau khi thu nhận giảm về mức 20-24 độ C ngay sau khi thu nhận. Đồng thời, trước và trong suốt quá trình li tâm nhiệt độ của máu được ổn định ở mức này làm cho cấu trúc tiểu cầu ổn định, tỉ lệ tiểu cầu vỡ, co cụm giảm. Từ đó chất lượng PRP tăng lên đáng kể.

    Hình 2. Sản phẩm Cool PRP

    Chuyển giao công nghệ Cool PRP

    Công nghệ Cool PRP mang đầy tâm huyết và đậm giá trị Việt. Sản phẩm CoolPRP là một sản phẩm chất lượng cao. Vì vậy việc đưa sản phẩm đến với đông đảo người dùng là một nhiệm vụ thiết yếu. Viện Tế Bào Gốc – Đại học Khoa Học Tự Nhiên – Đại học Quốc Gia Tp.HCM sẵn sàng hợp tác và chuyển giao công nghệ hoặc sản phẩm Cool PRP tới các đối tác trong và ngoài nước để lan toả những gía trị mà công nghệ Cool PRP mang lại nhằm phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khoẻ và thẩm mỹ của xã hội đồng thời nâng tầm giá trị Việt trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay.

    Đọc thêm thông tin về công nghệ ở đây: https://vientebaogoc.edu.vn/wpcproduct/cong-nghe-cool-prp/

    Tin SCI

  • Thử nghiệm lâm sàng thuốc tế bào điều trị ung thư: Bước tiến lớn trong y học

    Các nhà khoa học đang tiến hành một thử nghiệm lâm sàng đầu tiên sử dụng liệu pháp miễn dịch với tế bào giết tự nhiên (Natural killer cell) có nguồn gốc từ tế bào gốc trên người để chữa ung thư giai đoạn cuối.

    Tế bào giết tự nhiên Natural killer cell có thể nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư.


    Trung tâm của liệu pháp miễn dịch
    Ung thư là căn bệnh gây chết người lớn thứ 2 trên toàn thế giới sau bệnh tim. Ở Mỹ, ước tính khoảng 606.880 người chết vì ung thư vào năm 2019.
    Với sự ra đời của liệu pháp miễn dịch, các nhà nghiên cứu hi vọng có thể tăng cường hệ miễn dịch của người để chiến đấu và tiêu diệt khối u một cách hiệu quả. Cùng với hóa trị, phẫu thuật và xạ trị, phương pháp trị liệu mới này đã trở thành một trụ cột thứ tư trong điều trị ung thư. Việc ra đời liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư cũng đã thay đổi hoàn toàn bối cảnh điều trị cho các bệnh ung thư.
    Đóng vai trò quan trọng trong liệu pháp truyền tế bào và ức chế chốt kiểm soát (checkpoint) miễn dịch của danh mục liệu pháp miễn dịch là các tế bào giết tự nhiên (NK cell). Loại tế bào bạch cầu đặc biệt này trở thành một công cụ đầy tiềm năng trong việc rút ngắn hoạt động của các tế bào ung thư. Chúng có thể phát hiện và tiêu diệt các tế bào ung thư.
    Hiện nay, các nhà nghiên cứu tại Đại học Y khoa San Diego (UC) thuộc Đại học Canifonia đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng với sự hợp tác của Công ty Fate Therapeutics trong suốt 4 năm để nghiên cứu sử dụng riêng các tế bào NK hoặc kết hợp tế bào NK với các chất ức chế chốt kiểm soát miễn dịch trong trị liệu cho những bệnh nhân có khối u rắn tiến triển.
    Thông thường, tế bào NK được phân lập từ máu của người hiến hoặc bệnh nhân. Trong thử nghiệm này, liệu pháp miễn dịch thuốc (off – the – shelf) tế bào NK lần đầu tiên được các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ sử dụng các tế bào có nguồn gốc từ các tế bào gốc đa tiềm năng cảm ứng (iPS).


    iPS – nguồn tế bào ưu việt
    Các nhà khoa học lần đầu tiên phát triển tế bào iPS vào năm 2006 bằng cách chuyển đổi bốn gene không hoạt động trong tế bào da. Điều này đã làm thay đổi hoàn toàn các đặc điểm của các tế bào chức năng và đưa chúng trở lại trạng thái giống như phôi thai. Hiện nay iPS đang được coi là nguồn tế bào đầy ưu việt vì chúng có đặc tính như tế bào gốc phôi, có khả năng tự làm mới và phát triển thành bất kỳ loại tế bào nào trong cơ thể mà việc ứng dụng vào lâm sàng không vi phạm đạo đức sinh học. Mặt khác, chỉ với 1 tế bào iPS cũng có thể nhân lên với một lượng lớn. Do đó, iPS trở thành nguồn tế bào đầy tiềm năng cho liệu pháp thuốc tế bào sản xuất ở quy mô lớn với chi phí sản xuất hợp lý.
    Năm 2013, tiến sĩ Dan Kaufman, ở Khoa Y học tái tạo và là Giám đốc trị liệu tế bào tại Trường Y khoa UC San Diego cùng với nhóm của ông đã phát triển một phương pháp tăng sinh để nhân số lượng lớn tế bào NK từ tế bào iPS của con người nhằm điều trị ung thư.
    Họ đã công bố phương pháp này trên tạp chí Stem Cells Translational Medicine. Sau khi thử nghiệm tiền lâm sàng rộng rãi, tháng 11/2018 Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cho phép tiến sĩ Kaufman và Công ty Fate Therapeutics thiết lập một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I để thử nghiệm liệu pháp miễn dịch NK có nguồn gốc iPS ở những người có khối u rắn tiên tiến.


    Thuốc tế bào trị ung thư đầu tiên
    Thử nghiệm giai đoạn I bắt đầu vào tháng 2/2019 bao gồm 64 người mắc bệnh ung thư tiến triển, không thể điều trị được bằng các phương pháp truyền thống. Derek Ruff trở thành bệnh nhân đầu tiên trên thế giới được điều trị ung thư bằng liệu pháp tế bào gốc đa năng cảm ứng (iPSC) trong thử nghiệm có tên gọi FT500, là một phần của thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I tại Trung tâm Ung thư Moores tại UC San Diego Health. Sau 10 năm có xu hướng thuyên giảm, căn bệnh ung thư của Ruff đã quay trở lại và giờ đây Ruff phải chịu đựng ung thư đại tràng giai đoạn IV. Mặc dù đã trải qua các đợt hóa trị tích cực, xạ trị giảm nhẹ và liệu pháp miễn dịch, tình trạng bệnh tật của anh vẫn đang tiến triển. Thử nghiệm FT500 được thiết kế với mục đích chính là đánh giá sự an toàn của liệu trình điều trị. Các mục tiêu khác là xác định mức độ mà các khối u đáp ứng với liệu pháp tế bào NK và tìm hiểu thời gian các tế bào ở lại trong cơ thể của người bệnh.

    Derek Ruff trở thành bệnh nhân đầu tiên trên thế giới được điều trị ung thư bằng liệu pháp tế bào gốc đa năng cảm ứng (iPSC).


    Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu sử dụng 4 phác đồ bao gồm chỉ tiêm các tế bào NK hoặc tiêm tế bào NK với 1 trong 3 chất (có tên nivolumab, pembrolizumab hoặc atezolizumab) ức chế điểm kiểm soát. Nhóm nghiên cứu tiến hành theo dõi các tế bào một lần mỗi tuần trong 3 tuần. Tất cả những người tham gia nghiên cứu đều được biết họ đang được điều trị bằng phương pháp nào.
    “Đây là một thành tựu mang tính bước ngoặt đối với lĩnh vực y học dựa trên tế bào gốc và liệu pháp miễn dịch ung thư”, tiến sĩ Kaufman giải thích trong một thông cáo báo chí. “Thử nghiệm lâm sàng này đại diện cho việc sử dụng đầu tiên các tế bào được sản xuất từ ​​các tế bào gốc đa năng cảm ứng có nguồn gốc từ người để điều trị và chống ung thư.”
    “Cùng với Fate Therapeutics, chúng tôi đã có thể chỉ ra trong nghiên cứu tiền lâm sàng rằng chiến lược mới này để tạo ra các tế bào giết tự nhiên có nguồn gốc tế bào gốc đa năng cảm ứng người có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư một cách hiệu quả trong nuôi cấy tế bào và trên mô hình chuột”, ông nêu.
    Sẽ cần thời gian chờ đợi cho đến khi có kết quả thử nghiệm. Tuy nhiên, thử nghiệm này đã đem lại bước mở đường, không chỉ cho một thế hệ liệu pháp miễn dịch mới để điều trị ung thư mà còn cho các liệu pháp khác dựa trên tế bào iPS.


    Triển vọng tại Việt Nam
    Tại Việt Nam, thuốc tế bào gốc trong điều trị nhiều bệnh lý thoái hóa đang được tiến hành. Điển hình là thuốc Cartilatist trong điều trị thoái khóa khớp gối và cột sống dưới sự hợp tác giữa Viện Tế bào gốc (trường ĐH KHTN TP. HCM) và Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh. Liệu pháp miễn dịch trong điều trị bệnh ung thư cũng đang được quan tâm. Các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ở mức tiền lâm sàng đã được thực hiện trong một thời gian dài (từ năm 2010), từ khi Viện Tế bào gốc còn là Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Ứng dụng tế bào gốc, trường ĐH KHTN TP.HCM. Một số đơn vị ứng dụng trong nước cũng đang sử dụng hoặc có kế hoạch sử dụng liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư như Bệnh viện Quốc tế Vinmec, Trung tâm nghiên cứu gene và protein (Đại học Y Hà Nội)….
    Đơn vị nghiên cứu đã có, đơn vị ứng dụng cũng sẵn sàng. Vì vậy, trong tương lai, nếu được định hướng một cách rõ ràng và quyết liệt từ nhà nước, nhận được sự quan tâm của các doanh nghiệp thì việc đưa ra một sản phẩm kết hợp giữa thuốc tế bào và liệu pháp miễn dịch để tạo ra thuốc tế bào trong điều trị ung thư có tính khả thi cao.

    TS Vũ Bích Ngọc (Viện Tế bào gốc, ĐHKHTN TP.HCM)

    Nguồn: http://khoahocphattrien.vn/

  • Công nghệ bảo quản đông lạnh tế bào gốc: không huyết thanh, không chất bảo quản lạnh và đạt tiêu chuẩn tiêm truyền đầu tiên

    Công nghệ bảo quản đông lạnh tế bào gốc: không huyết thanh, không chất bảo quản lạnh và đạt tiêu chuẩn tiêm truyền đầu tiên

    Bảo quản đông lạnh tế bào gốc là phương pháp hiệu quả duy nhất để bảo quản tế bào gốc trong thời gian dài. Công nghệ bảo quản hiện tại thường sử dụng huyết thanh (bò hay người) kết hợp với chất bảo quản lạnh (thường là 10% DMSO). Công nghệ này có thể giúp bảo quản đông lạnh tế bào gốc trong thời gian dài và tế bào gốc có thể sống sau khi được rã đông. Tuy nhiên, vì chứa huyết thanh và DMSO nên tế bào gốc sau khi được rã đông cần được rửa kĩ để loại bỏ các thành phần này trước khi được sử dụng trên người. Công nghệ off-the-shelf stem cells (thuốc tế bào gốc) ra đời đòi hỏi một công nghệ bảo quản mới mà ở đó không sử dụng huyết thanh hay DMSO trong môi trường bảo quản và thành phần chất bảo quản là rõ ràng, xác định, và an toàn khi sử dụng trực tiếp trên người (tiêm hay truyền). Nghiên cứu từ năm 2008, Viện Tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM đã phát triển thành công công nghệ bảo quản tế bào gốc CryoSave với 3 thế hệ: Cryosave I, Cryosave II, và Cryosave III. Trong đó công nghệ Cryosave III là công nghệ đột phá, độc đáo bậc nhất hiện nay trên thị trường: không sử dụng huyết thanh (người và động vật), không sử dụng DMSO hay bất kì chất bảo quản nào; thành phần các chất là xác định, thoả mãn các tiêu chuẩn tiêm và truyền trực tiếp dung dịch vào bệnh nhân.

    Vậy công nghệ bảo quản đông lạnh tế bào gốc là gì ?

    Bảo quản đông lạnh (Cryopreservation) là một quá trình bảo quản tế bào, mô… ở nhiệt độ thấp. Ở nhiệt độ đủ thấp, hoạt tính của các enzyme bị ngưng lại hoàn toàn.

    Một trong những thuyết quan trọng về đông lạnh được đề xuất bởi James Lovelock. Năm 1953, lần đầu tiên ông đã đề nghị rằng các tổn hại trên tế bào hồng cầu trong quá trình đông lạnh là do stress áp suất thẩm thấu. Bảo quản đông lạnh được tiến hành ở tế bào người đầu tiên vào năm 1954 (đông lạnh tinh trùng).

    Việc đông lạnh thường gây chết tế bào bởi vì sự hình thành các tinh thể nước đá bên trong tế bào chất mà gây vỡ cấu trúc protein, bào quan của tế bào. Vì thế, việc sử dụng chất bảo quản lạnh (cryoprotectant) đã giảm đáng kể những tác động bất lợi này. Một số chất bảo quản lạnh được sử dụng trong bảo quản đông lạnh tế bào như DMSO, glycerol, polypropylene, trehalose… Trong đó DMSO là chất sử dụng nhiều nhất trong bảo quản tế bào gốc; đặc biệt là tế bào gốc trung mô.

    Tuy nhiên, DMSO là chất độc với tế bào nên có nhiều tác động bất lợi lên tế bào. Nhiều công nghệ mới phát triển trong thời gian gần đây nhằm giảm nồng độ DMSO hay loại bỏ hoàn toàn chất bảo quản lạnh trong môi trường bảo quản đông lạnh tế bào gốc.

    Trong thời gian gần đây, công nghệ off-the-shelf stem cell mở ra một kỉ nguyên mới cho tế bào gốc; và nhu cầu sử dụng môi trường bảo quản đông lạnh không độc, có thể tiêm truyền vào cơ thể cùng với tế bào gốc ngày càng tăng. Thật vậy, với công nghệ thuốc tế bào gốc, tại các cơ sở y tế, bác sĩ có thể sử dụng trực tiếp sản phẩm tế bào gốc trên bệnh nhân mà không cần phải đưa vào phòng thí nghiệm để li tâm loại bỏ môi trường bảo quản đông lạnh trước khi tế bào gốc được sử dụng.

    Đột phá và khác biệt từ công nghệ bảo quản tế bào gốc của Viện Tế bào gốc

    Với tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển của liệu pháp tế bào nói chung mà cụ thể là liệu pháp tế bào gốc bằng công nghệ off-the-shelf stem cells. Viện Tế Bào Gốc đã không ngừng phát triển và cải tiến dòng sản phẩm Cryosave trong một thập kỉ qua với ba thế hệ I, II và III bằng các công nghệ và mục đích sử dụng khác nhau. Trong đó sản phẩm mới nhất cryosave III là thế hệ ưu việt và hoàn hảo nhất.

    Thông thường, Việc bảo quản tế bào gốc trung mô thường được tiến hành bằng cách sử dụng môi trường nuôi bổ sung 10% DMSO. Trong môi trường nuôi chứa sẵn các chất dinh dưỡng với 10-20% huyết thanh bò.

    Thế mạnh công nghệ CyroSave III. Viện Tế bào gốc

    Tuy nhiên với môi trường bảo quản đông lạnh dạng này, nhiều yếu tố bất lợi đã được ghi nhận như:

    • Môi trường chứa huyết thanh bò, không thể sử dụng trực tiếp trên người
    • DMSO có tính độc cao trên tế bào và cả trên người
    • Môi trường có độ ổn định thấp bởi vì chứa các thành phần ít ổn định chất lượng như huyết thanh bò
    • Các môi trường này có rủi ro cao khi sử dụng để bảo quản tế bào gốc cho cấy ghép điều trị trên người

    Loại bỏ chất bảo quản lạnh như DMSO ra khỏi công thức môi trường bảo quản đông lạnh là thách thức lớn nhất trong công nghệ bảo quản tế bào gốc off-the-shelf.

    Bằng kinh nghiệm và không ngừng cập nhật những kiến thức cũng như xu hướng mới của công nghệ trên thế giới, chúng tôi đã có những bước đột phá để cho ra đời sản phẩm Cryosave III hoàn toàn không chứa DMSO và huyết thanh tuy nhiên vẫn đảm bảo tỉ lệ sống của tế bào trên 75% đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu cho việc sử dụng mẫu tế bào gốc sau khi đông lạnh cho cấy ghép điều trị theo khuyến cáo của FDA, Mĩ.

    Sản phẩm CryoSave I, II và III

    Không dừng lại ở đó, Cryosave III còn mang đến sự khác biệt là môi trường đông lạnh duy nhất có thể lưu trữ và vận chuyển ở nhiệt độ phòng. Nhờ vậy mà khâu bảo quản và vận chuyện trở nên đơn giản, giảm thiểu tối đa chi phí và thuận tiện cho người sử dụng.

    Quy trình đông lạnh và rã đông sử dụng môi trường CyroSave I, II và III

    Bạn quan tâm đến công nghệ CryoSave và muốn tìm hiểu thêm về công nghệ có thể đọc thêm tại đây: https://vientebaogoc.edu.vn/wpcproduct/cong-nghe-cryosave/

    Bạn muốn hợp tác chuyển giao công nghệ, sản xuất OEM, xin vui lòng liên hệ tại đây: https://vientebaogoc.edu.vn/contacts/

    Tin SCI

  • Viện Tế Bào Gốc thành lập PTN đánh giá chất lượng tế bào gốc đầu tiên ở Việt Nam

    Viện Tế Bào Gốc thành lập PTN đánh giá chất lượng tế bào gốc đầu tiên ở Việt Nam

    Viện Tế bào gốc thành lập phòng thí nghiệm (PTN) đánh giá chất lượng tế bào gốc nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản phẩm tế bào gốc ứng dụng trong y học và cũng là một cơ quan phục vụ ngoại kiểm cho các cơ sở sản xuất tế bào gốc trong và ngoài nước. Một số chỉ tiêu đánh giá của PTN sẽ được thực hiện theo ISO17025.

    Tế bào gốc đang trở thành một sản phẩm mới trong ngành sinh dược phẩm. Việc ứng dụng tế bào gốc ngày càng rộng rãi ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ở nhiều quốc gia, việc sản xuất tế bào gốc đòi hỏi theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn và hướng dẫn của quốc gia để đảm bảo chất lượng tế bào gốc trước khi được thương mại và sử dụng cho điều trị. Ở Việt Nam, chưa có các công ty, tập đoàn lớn về tế bào gốc; việc sản xuất tế bào gốc sử dụng trong điều trị bệnh có nhỏ lẻ ở một số phòng thí nghiệm, bệnh viện… Vì việc đầu tư cơ sở vật chất nói chung, trang thiết bị nói riêng cho phòng đánh giá và kiểm chuẩn chất lượng tế bào gốc tốn nhiều chi phí; và ở nước ta hiện nay vẫn chưa có đơn vị nào có thể thực hiện một cách đồng bộ, đầy đủ các tiêu chuẩn chất lượng của tế bào gốc; Viện Tế bào gốc thành lập phòng thí nghiệm (PTN) đánh giá chất lượng tế bào gốc nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản phẩm tế bào gốc ứng dụng trong y học và cũng là một cơ quan phục vụ ngoại kiểm cho các cơ sở sản xuất tế bào gốc trong và ngoài nước. Một số chỉ tiêu đánh giá của PTN sẽ được thực hiện theo ISO17025.

    Việc thực hiện đánh giá các tiêu chuẩn chất lượng của tế bào gốc là một trong các hoạt động của PTN Đánh giá hoạt tính sinh học (Laboratory for Assessment of Biological Activity – LABA). LABA là kết quả của việc đầu tư của Viện Tế bào gốc và tài trợ của Ngân hàng Thế giới thông qua tiểu dự án “Nâng cao năng lực tự chủ thông qua nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất thuốc tế bào gốc phục vụ điều trị một số bệnh trên người” (15/FIRST/2a/SCI) thuộc dự án Đẩy mạnh Đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ” (FIRST) của Bộ Khoa học và Công nghệ.

    LABA sẽ thực hiện các dịch vụ đánh giá tế bào gốc, hoạt tính sinh học trên tế bào người và động vật, bao gồm:

    • Các chỉ tiêu hoá lý
    • Các chỉ tiêu vi sinh
    • Các chỉ tiêu chất lượng tế bào gốc trung mô
    • Các chỉ tiêu chất lượng tế bào gốc tạo máu
    • Các đánh giá độc tính/hoạt tính lên tế bào người và động vật

    LABA có 100 m2 phòng sạch cấp 10,000  với các trang thiết bị hiện đại, độ chính xác cao như hệ thống Microconfocal (Molecular Devices), hệ thống UHPLC (Agilent), hệ thống phân tách thu nhận phân đoạn (GE Healthcare), hệ thống đo nội độc tố với độ nhạy cao, máy định tính, định lượng mycoplasma, hệ thống siêu li tâm, các hệ thống flow cytometer (BD Bioscience), hệ thống chiết rót chất lỏng tự động (Beckman Coulter, Eppendorf)… với tổng giá trị của LABA lên đến 40 tỉ đồng.

    LABA sẽ thực hiện đánh giá theo ISO17025 cho một số chỉ tiêu quan trọng trong năm 2019. Theo kế hoạch, LABA bắt đầu nhận dịch vụ từ tháng 9.2019.

    Tin. Phòng KHCN & SHTT, Viện Tế bào gốc

  • Hệ sinh thái tế bào gốc Viện Tế bào gốc: những kết quả bước đầu

    Một sản phẩm công nghệ cao luôn chứa đựng hàng chục đến hàng trăm công nghệ khác nhau. Để được đưa ra thị trường, sản phẩm ấy đã trải qua nhiều bước phát triển từ nghiên cứu cơ bản, mà ở mỗi bước đó, công nghệ được hoàn thiện ở một mức độ nhất định; được gọi là mức độ sẵn sàng công nghệ. Thông thường, tại mỗi cơ sở, đơn vị tham gia vào trong chuỗi phát triển công nghệ chỉ có thể thực hiện một vài mức sẵn sàng công nghệ khác nhau. Nhận thức được thực trạng đó, Viện Tế bào gốc đã nỗ lực xây dựng Hệ sinh thái Viện tế bào gốc (SCI Ecosytem) với mỗi “quần xã, quần thể” trong hệ sinh thái đảm trách việc hoàn thiện một “mức độ sẵn sàng công nghệ” khác nhau.

    Mức độ sẵn sàng công nghệ là gì?

    Mức độ sẵn sàng công nghệ (TRL) là mức độ “trưởng thành” của công nghệ đạt được trong suốt quá trình phát triển công nghệ. Khái niệm TRL được phát triển tại NASA vào những năm 1970. Ở một số quốc gia, các dự án, đề tài nghiên cứu và đổi mới sáng tạo luôn được phân loại theo mức độ sẵn sàng công nghệ khi đánh giá và tài trợ. Việc đánh giá này góp phần đáng kể vào việc đánh giá đề tài và quản lí kết quả sau khi nghiệm thu.

    Tại Viện Tế bào gốc, tất cả các kết quả nghiên cứu đều được ghi nhận và đánh giá theo mức độ hoàn thiện công nghệ như dưới đây. Dựa vào độ trưởng thành của công nghệ, công nghệ được Lãnh đạo Viện xem xét đầu tư và hợp tác phát triển.


    Hình 1. Các mức độ sẵn sàng công nghệ được phân loại tại Viện Tế bào gốc

    Hệ sinh thái Viện Tế bào gốc (SCI Ecosystem)

    Hệ sinh thái Viện Tế bào gốc là tập hợp các đơn vị hợp tác theo chuỗi phát triển hoàn thiện công nghệ tế bào gốc. Đến nay, những nét chính trong hệ sinh thái này đã hình thành với các mức độ hoàn thiện công nghệ rõ ràng cùng với các đơn vị tham gia trong chuỗi này (Hình 2):

    • Mức TRL 1-2: PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, PTN Nghiên cứu Ung thư
    • Mức TRL 2-4: Viện Tế bào gốc (gồm các đơn vị CRD (Trung tâm Nghiên cứu Phát triển), CBT (Trung tâm đào tạo Y sinh), LACU (PTN Chăm sóc và sử dụng động vật), LABA (PTN Đánh giá hoạt tính sinh học)
    • Mức TRL 5-7: Trung tâm Đổi mới sáng tạo và sản xuất thực nghiệm (CIPP)
    • Mức TRL 8-9: Công ty Geneworld, Công ty TNHH BVĐK Vạn Hạnh, Công ty TNHH The Cell và 12 đơn vị ứng dụng khác

    Trong thời gian tới, Viện Tế bào gốc tiếp tục hợp tác các đối tác để hình thành Trung tâm thử nghiệm lâm sàng tế bào gốc, Hội thử nghiệm lâm sàng tế bào gốc quốc tế.


    Hình 2. Hệ sinh thái Viện Tế bào gốc sau 10 năm xây dựng từ PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, Trường Đại học KHTN, ĐHQG Tp.HCM
    . (Màu xanh (xanh dương và xanh jean): đã xây dựng; màu vàng: đang xây dựng; màu đỏ: chưa thành lập).

    Sự hình thành ngày càng rõ nét của Hệ sinh thái Viện Tế bào gốc đã khẳng định chiến lược phát triển và quy hoạch phát triển theo mức độ sẵn sàng công nghệ của Viện bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng kích lệ.

    Theo PGS.TS. Phạm Văn Phúc – Viện trưởng Viện Tế bào gốc, hệ sinh thái Viện Tế bào gốc sẽ là yếu tố quyết định đến sự thành công và phát triển bền vững của Viện Tế bào gốc nói riêng và các đơn vị trong hệ sinh thái nói chung. Ông còn cho biết thêm, tồn tại trong hệ sinh thái, các đơn vị được gắn bó mật thiết với nhau bởi sợi dây công nghệ, giúp các đơn vị “mạnh hơn”, tránh được các “sóng gió” công nghệ bên ngoài.

    Theo PGS Phúc: “Mục tiêu sắp tới của chúng tôi là làm sao hệ sinh thái này được bền vững”. Theo đó, hệ sinh thái Viện Tế bào gốc hướng đến xây dựng mô hình bền vững như Hình 3.


    Hình 3. Cấu trúc bền vững của hệ sinh thái Viện Tế bào gốc trong tương lai.

    P. Khoa học Công nghệ và Sở hữu trí tuệ, Viện Tế bào gốc