Theo công bố của Clarivate và Elsevier, tạp chí Biomedical Research and Therapy do Biomedpress xuất bản hợp tác với Viện Tế bào gốc, Trường ĐHKHTN, ĐHQG Tp.HCM tiếp tục được duy trì trong danh sách tạp chí thuộc danh mục Emerging Sources Citation Index (ESCI) nằm trong cơ sở dữ liệu Web of Science của Clarivate và danh mục Scopus trong đợt xét tháng 5.2019. Đến nay, Biomedical Research and Therapy đã được chọn vào danh mục ESCI 4 năm (từ năm 2015) và Scopus 2 năm (từ năm 2018).
Trên thực tế Tạp chí Biomedical Research and Therapy được chọn trong danh mục Scopus từ năm 2015; tuy nhiên đến năm 2017 tạp chí bị loại ra khỏi danh sách; và được chọn lại vào năm 2018.
Biomedical Research and Therapy xuất bản lần đầu tiên vào năm 2014; do PGS.TS. Phạm Văn Phúc sáng lập hợp tác với NXB Springer-Nature. Đến năm 2015, tạp chí này bắt đầu xuất bản độc lập. Tạp chí này tập trung xuất bản các nghiên cứu dạng nguyên bản, tổng quan, báo cáo… về 2 chủ đề là sinh học và y học. Sau hơn 5 năm xuất bản, Tạp chí Biomedical Research and Therapy đã xuất bản hơn 500 bài báo. Tạp chí có hội đồng biên tập đa dạng từ hơn 10 quốc gia khác nhau như Việt Nam, Mĩ, Nhật, Đức, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Malaysia, Trung Quốc, Canada… Nguồn tác giả của tạp chí cũng rất đa dạng, đến nay có hơn 20 quốc gia khác nhau nộp bài cho tạp chí như Việt Nam, Mĩ, Nhật, Nga, Trung Quốc, Iran, Iraq, Ấn Độ, Pakistan, Malaysia, Indonesia, Đức, Nigeria, Arap Saudi, Ukraine, Bangladesh…
Tất cả các tác giả Việt Nam khi công bố trên tạp chí này sẽ được giảm 40% phí xuất bản, chỉ còn 90 USD/bài; các học viên và nghiên cứu sinh có thể được miễn 100% phí xuất bản nếu gửi yêu cầu miễn phí xuất bản đến toà soạn để xem xét tại email: support@bmrat.org hay managingeditor@bmrat.org
Ngay từ khi thành lập Biomedical Research and Therapy đã thực hiện theo quy trình công bố chuẩn quốc tế theo hướng dẫn của Scopus, Web of Science và COPE, thực hiện phản biện peer-review nghiêm túc; hệ thống nộp bài chuyên nghiệp; hệ thống công bố trực tuyến chuyên nghiệp cùng với hệ thống chế bản hiện đại đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tác giả và đọc giả.
Ban lãnh đạo tạp chí tiếp tục nâng cao chất lượng trong thời gian tới để được chọn vào danh mục Science Citation Index Expanded và có Impact Factor sớm.
Tất cả các tác giả Việt Nam khi công bố trên tạp chí này sẽ được giảm 40% phí xuất bản, chỉ còn 90 USD/bài; các học viên và nghiên cứu sinh có thể được miễn 100% phí xuất bản nếu gửi yêu cầu miễn phí xuất bản đến toà soạn để xem xét tại email: support@bmrat.org hay managingeditor@bmrat.org
Cuộc thi Stem Cell Innovation lần 6-2019 đã chính thức bắt đầu. Theo đó, cuộc thi sẽ diễn ra từ ngày 20/9/2019 đến 27/10/2019 trong sự tranh tài về cả kiến thức sinh học và ý tưởng tế bào gốc giữa các đội thi để giành lấy giải thưởng với tổng giá trị lên đến 150.000.000VNĐ
Stem
cell innovation là cuộc thi học thuật hằng năm do Viện Tế bào gốc và PTN nghiên
cứu và ứng dụng tế bào gốc đồng tổ chức. Cuộc thi nhằm tạo sân chơi học tập và
nghiên cứu cho tất cả học sinh, sinh viên yêu thích lĩnh vực sinh học, công nghệ
sinh học, y học, dược học và nông nghiệp, các lĩnh vực có liên quan đến tế bào
và tế bào gốc trên người và động vật, kích thích khả năng sáng tạo để giải quyết
các vấn đề về sinh học ứng dụng và y dược đáp ứng các yêu cầu của xã hội.
Đã trải qua 5 năm tổ chức, cuộc thi ngày càng chứng tỏ được mục đích đã đề ra ban đầu. Các học sinh, sinh viên trên toàn quốc, từ thủ đô Hà Nội đến những tỉnh miền trung như Huế, Đà Nẵng và các tỉnh phía nam đã cùng nhau quy tụ về Viện Tế bào gốc tại Linh Trung, Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh để thi đấu đầy gây cấn và hấp dẫn.
Chương trình ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm và đăng kí dự thi của nhiều đội thi đa dạng lứa tuổi từ THPT đến đại học nhưng có cùng niềm đam mê khoa học.
Năm 2019, với tinh thần đó, Ban tổ chức đã chính thức khởi động cuộc thi lần thứ 6 nhằm tìm kiếm các ý tưởng sáng tạo về tế bào gốc, những tinh thần đam mê nghiên cứu, miệt mài học hỏi và tìm hiểu khoa học, dám nghĩ và biết làm. Trong cuộc họp, BTC đã đưa ra các phương án về nhân sự, công tác chuẩn bị, kế hoạch, nội dung …của cuộc thi năm nay. Theo đó, hình thức của cuôc thi sẽ thay đổi nhằm tạo thuận lợi cho thí sinh. Thí sinh đăng kí dự thi trực tuyến qua website cuộc thi: www.stemcellinnovation.com.vn. Các ý tưởng sáng tạo xuất sắc sẽ đi thẳng vào vòng chung kết mà không cần phải thi vòng loại trực tiếp. Thời gian diễn ra cuộc thi sẽ bắt đầu từ ngày 5/8/2019 đến 27/10/2019.
Cuộc
thi sẽ diễn ra 3 vòng:
– Vòng sơ loại (trắc nghiệm trực tuyến): Kiến
thức chung về sinh học, tế bào gốc
– Vòng loại (đối kháng trực tiếp): Kiến thức &
ý tưởng tế bào gốc
– Vòng chung kết (đối kháng trực tiếp): Sáng kiến tế bào
gốc
Cơ
cấu giải thưởng hấp dẫn, với nhiều giải thưởng phụ nhằm tạo cơ hội cho đội thi
như sau:
Giải
thưởng chính:
Giải nhất: 20.000.000 đ, kỉ niệm chương,
giấy khen của Viện Tế Bào Gốc.
Giải nhì: 15.000.000 đ, và giấy khen của
Viện Tế Bào Gốc.
Giải ba: 10.000.000 đ, và giấy khen của Viện
Tế Bào Gốc.
Giải khuyến khích :5.000.000 đ, và giấy
khen của Viện Tế Bào Gốc.
Tất
cả các đội thi được vào vòng chung kết sẽ nhận được một khóa học tập và làm việc
tại Viện Tế Bào Gốc.
Các
đội thi vào chung kết sẽ có cơ hội được hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất để thực
hiện ý tưởng.
Giải
phụ:
Đội
cao điểm nhất vòng sơ loại: 1.000.000 đ
Đội
có ý tưởng được yêu thích nhất: 1.000.000 đ
Rút
thăm may mắn ở các vòng thi dành cho khán giả với tổng giải thưởng hơn
15.000.000 đ.
Stem cell innovation quay trở lại với một phiên bản mới, một hành trình tìm kiếm ý tưởng mới lại bắt đầu. Với tinh thần đam mê nghiên cứu và yêu khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực tế bào gốc, hi vọng rằng đây sẽ là mùa giải đáng nhớ trong các đội thi.
Ngày hôm qua, chúng tôi đọc bài viết được đăng tải trên trang koreabiomed.com về doanh thu của sản phẩm Cartistem – một sản phẩm thuốc tế bào gốc được nghiên cứu, sản xuất và đăng kí lưu hành tại Hàn Quốc bởi công ty Medipost từ năm 2012. Doanh thu hàng năm của sản phẩm này đã đạt khoảng 8 triệu USD (khoảng 184 tỉ đồng); và trong 6 tháng đầu năm 2019 đã bán được khoảng 7 triệu USD (khoảng 161 tỉ đồng), và dự kiến sẽ đạt khoảng 260 tỉ đồng trong năm 2019. Cartilatist là sản phẩm do Viện Tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Tp.HCM nghiên cứu. Công nghệ này đã hoàn thiện và đã chuyển giao cho Công ty TNHH Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh sản xuất và thương mại từ năm 2020. Sản phẩm Cartilatist (Việt Nam) có thể đạt được những bước tiến ngoạn mục như của Cartistem (Hàn Quốc) ? Dưới đây là bài phỏng vấn nhanh của chúng tôi với PGS.TS. Phạm Văn Phúc – người nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất Cartilatist.
PV:Thưa ông, ông có thể cho biết sự khác nhau chính giữa 2 sản phẩm Cartilatist mà do nhóm của ông nghiên cứu và sẽ sản xuất tại công ty Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh sắp tới và sản phẩm Cartistem của Hàn Quốc?
PGS.TS Phạm Văn Phúc trả lời:
Cartilatist là tên sản phẩm thuốc tế bào gốc do chúng tôi nghiên cứu từ năm 2007 và hoàn thiện vào năm 2018. Cartistem là sản phẩm do công ty Medipost, Hàn Quốc sản xuất và lưu hành tại Hàn Quốc từ năm 2012.
Hai sản phầm này dù có chỉ định điều trị giống nhau, đó là điều trị thoái hoá sụn khớp, nhưng chúng khác nhau lớn về công nghệ. Sự khác biệt lớn nhất là Cartistem, Hàn Quốc sử dụng tế bào gốc từ máu dây (cuống) rốn người; trong khi đó sản phẩm Cartilatist, Viện Tế bào gốc (Việt Nam) sử dụng tế bào gốc từ mô mỡ người.
Hơn nữa, Cartilatist, Viện Tế bào gốc (Việt Nam) sở hữu công nghệ CryoSave giúp tế bào gốc có thể bảo quản dài hạn tế bào gốc trong điều kiện -86 0C. CryoSave II, III là dung dịch bảo quản chuyên dụng cho thuốc tế bào gốc do Viện Tế bào gốc nghiên cứu. Khác với các dung dịch bảo quản khác, CryoSave II và III sử dụng rất ít hay không sử dụng chất bảo quản (như DMSO, glycerol…) để bảo quản tế bào gốc; hơn nữa toàn bộ các chất sử dụng và sản xuất CryoSave theo tiêu chuẩn thuốc tiêm và truyền; do đó; sản phẩm Cartilatist có thể bảo quản thời gian dài và sử dụng trực tiếp mà không cần thêm bất kì thao tác nào để loại bỏ dung dịch bảo quản tế bào gốc.
Cartilatist (Việt Nam)
Cartistem (Hàn Quốc)
Dạng sản phẩm
Thuốc tế bào gốc/sinh phẩm
Thuốc tế bào gốc/sinh phẩm
Dạng cấy ghép
Đồng loài (tế bào gốc của người này cấy sang người khác)
Đồng loài (tế bào gốc của người này cấy sang người khác)
Loại tế bào gốc
Tế bào trung mô từ mô mỡ người
Tế bào gốc trung mô từ máu cuống rốn người
Tăng sinh in vitro
Nuôi cấy tăng sinh in vitro
Nuôi cấy tăng sinh in vitro
Dạng thức sản phẩm
Tế bào gốc chứa trong chai
Tế bào gốc chứa trong chai
Điều kiện bảo quản
Bảo quản dài hạn tại -86 oC
Bảo quản thời gian ngắn tại 4-20 oC
Sử dụng
Sử dụng kết hợp với Sodium Hyaluronate, hay huyết thương giàu tiểu cầu
Sử dụng kết hợp với Sodium Hyaluronate
Chỉ định
Thoái hoá khớp và thoái hoá đĩa đệm cốt sống
Thoái hoá khớp
PV: Thưa PGS, Theo ý trên của PGS thì sản phẩm Cartilatist tốt hơn sản phẩm Cartistem?
PGS. Phạm Văn Phúc:
Đây là câu hỏi mà tôi chưa trả lời được. Tuy nhiên, mỗi sản phẩm sẽ có những ưu thế riêng. Riêng sản phẩm Cartilatist do chúng tôi sản xuất; có lẽ khả năng bảo quản dài hạn của sản phẩm là một ưu thế quan trọng. Còn hiệu quả sử dụng của sản phẩm thì cần nghiên cứu đánh giá, so sánh khách quan và toàn diện mới có thể trả lời được.
PV:Thưa PGS, Theo ông sản phẩm Cartilatist tại thị trường Việt Nam có đạt 8 triệu USD/năm như sản phẩm Cartistem tại Hàn Quốc?
PGS. Phạm Văn Phúc:
Thoái hoá sụn khớp hay thoái hoá đĩa đệm cột sống là những bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Sự thành công của Cartistem, Hàn Quốc làm cho chúng tôi hi vọng nhiều hơn sự thành công của Cartilatist.
Thật vậy, sự thành công của Cartistem, Hàn Quốc một lần nữa khẳng định tính an toàn và hiệu quả cuả điều trị thoái hoá khớp bằng thuốc tế bào gốc trung mô; và khẳng định nhu cầu của xã hội về điều trị bằng phương pháp này.
Khi tìm trên google, tôi nhận thấy rằng Hàn Quốc có dân số chỉ hơn một nửa dân số của Việt Nam (khoảng hơn 50 triệu người). Như vậy, nếu tỉ lệ bệnh và nhu cầu điều trị của hai quốc gia giống nhau thì tôi hi vọng rằng sản phẩm Cartillatist có thể đạt những kết quả khả quan trong thời gian tới.
Điều mà tôi quan tâm không phải là con số 8 tr USD hay 10 USD/năm mà là bao nhiêu người bệnh Việt Nam có thể hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu này. Giá trị thương mại của sản phẩm dù rất quan trọng nhưng có lẽ nó là công việc của Công ty TNHH Bệnh viện Đa Khoa Vạn Hạnh.
PV:Sau sản phẩm Cartilatist này, Viện Tế bào gốc có sản phẩm tế bào gốc nào khác để phục vụ người bệnh?
PGS. Phạm Văn Phúc:
Sản phẩm tiếp theo mà Viện Tế bào gốc đang hoàn thiện và mời gọi chuyển giao công nghệ là Modulatist. Modulatist là sản phẩm thuốc tế bào gốc dùng trong điều trị các bệnh lí hay điều kiện về miễn dịch như viêm mạn tính, bệnh tự miễn, mảnh ghép chống kí chủ, cấy ghép cơ quan… Sản phẩm này được tài trợ một phần bởi Ngân hàng Thế giới thông qua dự án FIRST (bộ KHCN) để hoàn thiện công nghệ.
Chiều ngày 06/09/2019, trong chương trình làm việc với Đại Học Quốc Gia Tp.HCM, Đại tá Nguyễn Trường Thắng, Ủy viên thường vụ Thành uỷ Tp.HCM, Tư lệnh Bộ Tư Lệnh Tp.HCM đã đến thăm Viện Tế Bào Gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Tp.HCM.
Tại Viện Tế Bào Gốc, PGS.TS. Phạm Văn Phúc – Viện trưởng Viện Tế Bào Gốc đã hân hạnh đón tiếp Đoàn. Đại diện Viện, Viện Trưởng đã giới thiệu các thành tựu nổi bật
trong hoạt động nghiên cứu khoa học và
công nghệ của Viện trong thời gian qua, đặc biệt là các sản phẩm
ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh như Cartilatist,
Modulatist, Skinatist, các kit như 5PRP kit, Cool PRP kit, Cell Extraction
kit… cùng với các dây chuyền công nghệ khác do Viện Tế Bào Gốc nghiên cứu và sản
xuất.
Đoàn làm
việc của
Bộ Tư Lệnh rất quan tâm đến những sản phẩm khoa học công nghệ của Viện Tế Bào Gốc.
Viện Tế bào gốc hi vọng có thể mang
những kết quả nghiên cứu khoa học của mình phục vụ cho Bộ Tư lệnh trong thời
gian tới.
Ghép tế bào gốc đang trở thành một trong những phương pháp điều trị bệnh đầy tiềm năng cho các bệnh lý thoái hoá, tổn thương hệ miễn dịch hay các tổn thương mất mô, cơ quan.
Gần đây, thậm chí đã có những tiến bộ đột phá với những bệnh nhân đầu tiên được ghép tế bào gốc đa tiềm năng cảm ứng để chữa thoái hóa mắt, hay tế bào gốc mang gene đột biến để chữa HIV. Tại Việt Nam, liệu pháp này cũng đang được quan tâm và ứng dụng ngày càng nhiều. Loạt bài dưới đây của các nhà nghiên cứu tại Viện Tế bào gốc, ĐH KHTN TP Hồ Chí Minh lý giải cơ chế hoạt động và hiệu quả thực sự của quá trình các tế bào gốc được ghép và “sửa chữa” các tổn thương.
Mỗi cơ thể động vật nói chung và con người nói riêng được tạo ra khi trứng của mẹ và tinh trùng của cha gặp nhau để tạo thành một tế bào gốc đầu tiên có tên gọi là hợp tử. Hợp tử là tế bào gốc đầu tiên của cơ thể và cũng là tế bào gốc lớn nhất trong các loại tế bào gốc.
Hợp tử tiếp tục nhân lên về số lượng để tạo thành phôi rồi hình thành thai. Trong suốt quá trình phát triển của thai, bên cạnh việc tăng sinh về số lượng, cũng sẽ có một phần tế bào gốc biệt hóa để tạo các tế bào chuyên hóa về chức năng, trở thành các bộ phận khác nhau của cơ thể như tai, mắt, mũi, máu, thần kinh…. Trong suốt giai đoạn hình thành và phát triển, cơ quan và cả cơ thể được tiếp tục hoàn thiện chức năng và kích thước thông qua nhiều cơ chế hoạt động của tế bào gốc.
Tế bào gốc hoạt động theo các cơ chế khác nhau: (1) có thể một tế bào gốc nhân lên để thành hai tế bào gốc con giống hệt nhau và giống hệt tế bào gốc ban đầu. Hoạt động này nhằm duy trì số lượng và tạo nguồn dự trữ tế bào gốc trong cơ thể; (2) một tế bào gốc ban đầu nhân lên thành hai tế bào, trong đó có một tế bào gốc giống hệt tế bào mẹ ban đầu, một tế bào còn lại sẽ biệt hóa để trở thành tế bào chức năng; (3) tế bào gốc ban đầu sẽ biệt hóa để trở thành tế bào chức năng.
Sự biệt hóa hay giữ nguyên tính gốc ban đầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự tương tác giữa tế bào với tế bào hay tế bào với môi trường bao quanh nó (bao gồm cả môi trường nội tại và môi trường bên ngoài cơ thể) có tác động đáng kể tới việc đóng mở các gene quy định số phận của tế bào. Chính nhờ đặc tính này mà tế bào gốc sẽ được huy động đến đúng vị trí tổn thương hay vị trí có tế bào lão hóa, tế bào chết để thay thế và bù đắp số lượng tế bào thiếu hụt.
Ví dụ đơn giản nhất là quá trình tự phục hồi của cơ thể sau khi gặp các tổn thương như trầy xước da hay đứt tay hoặc các tổn thương lớn hơn như gẫy xương, chấn thương phần mềm. Khi tay bị đứt, vết đứt gây ra tổn thương cho các tế bào quanh như tế bào da, tế bào mạch máu… Sự tổn thương này sẽ tạo ra các tín hiệu để các yếu tố cận tiết và yếu tố tự tiết theo dòng máu đi tới hệ thần kinh trung ương, từ đây hệ thần kinh phát ra các tín hiệu báo hiệu cho cơ thể biết chính xác vị trí của vết thương. Khi đó, tế bào gốc tại vùng tổn thương hoặc tế bào gốc từ vùng lân cận và từ tủy xương sẽ được huy động và kích hoạt để làm nhiệm vụ theo một hoặc nhiều trong số các cơ chế đã nêu nhằm sửa chữa các tổn thương quanh vùng da bị đứt.
Vậy làm sao để tế bào gốc biệt hóa thành chính tế bào thiếu hụt? Một trong những cách mà tế bào gốc làm được là do sự hỗ trợ của các tín hiệu (chất tiết, yếu tố được giải phóng từ quá trình tổn thương) quanh vùng mô tổn thương. Khi máu chảy, cùng với nhiều tác động khác, các tiểu cầu lập tức tập hợp lại quanh vùng mạch tổn thương để tham gia quá trình cầm máu. Chính sự tập kết tiểu cầu tạo thành các nút tiểu cầu và khi các nút tiểu cầu vỡ ra sẽ đồng thời giải phóng các yếu tố tăng trưởng từ tiểu cầu. Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng sinh tế bào gốc và biệt hoá chúng thành tế bào chức năng thay thế tế bào thiếu hụt.
Định hướng biệt hóa thành tế bào chức năng cũng được chi phối bởi các tín hiệu do tế bào tổn thương phát ra và một số các yếu tố tổng hợp khác. Cơ chế sửa chữa tổn thương này cũng tương tự cho hầu hết các vùng mô khác trong cơ thể. Mức độ lành nhanh hay chậm của vết thương phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau như diện tích vùng tổn thương, đặc tính sinh học của từng cơ thể (cơ địa), mức độ hoạt động, giới tính hay tuổi tác… Trong đó, tuổi tác là một trong các yếu tố chính tác động đến tốc độ lành vết thương. Một em bé sơ sinh hay trẻ ở tuổi đang lớn sẽ có tốc độ lành thương nhanh hơn nhiều so với người lớn tuổi. Đó là do lượng tế bào gốc trong cơ thể trẻ nhiều hơn với lượng tế bào gốc ít bị lão hóa hơn so với người lớn. Điều này đã được đề cập trong rất nhiều nghiên cứu.
Đặc tính rất quan trọng của tế bào gốc là chúng tự biết khi nào sẽ phải làm gì và làm thế nào cho đúng. Khác với tế bào ung thư, tế bào gốc tăng sinh với số lượng đủ để bù đắp cho số lượng tế bào đã lão hóa, tế bào tổn thương hay tế bào chết. Chúng chỉ hoạt động (tăng sinh và/hoặc biệt hóa) khi nhận được tín hiệu phù hợp. Tế bào gốc cũng chỉ tăng sinh và biệt hóa thành tế bào chức năng ở đúng vị trí thiếu hụt tế bào. Trong khi đó, tế bào ung thư có thể tăng sinh ở mọi cơ quan, mọi vị trí và tăng sinh vượt mức số lượng tế bào vốn có của cơ quan.
Trong suốt cuộc đời, dù có hay không có các chấn thương cơ học thì tế bào gốc vẫn luôn hoạt động (để thay thế các tế bào lão hóa). Hoạt động của tế bào gốc đã tạo ra sự cân bằng về số lượng và chất lượng của các loại tế bào trong cơ thể. Nhờ đó mà hoạt động sống của cơ thể có thể diễn ra bình thường. Vì vậy, có thể nói tế bào gốc là chìa khóa quan trọng của sự sống. Dựa trên những hiểu biết về tác dụng của tế bào gốc trong cơ thể, các nhà khoa học đã tìm cách phân lập, nuôi cấy tăng sinh tế bào gốc trong phòng thí nghiệm để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Trong phòng thí nghiệm, tế bào gốc được định nghĩa là các tế bào có khả năng tăng sinh không giới hạn, có khả năng tự làm mới (tạo ra tế bào gốc mới giống hệt tế bào gốc ban đầu) và có khả năng biệt hóa để tạo thành tế bào có chức năng cụ thể. Hiện nay, nguồn tế bào gốc nuôi cấy trong phòng thí nghiệm đang trở thành một sản phẩm y học quan trọng trong các ứng dụng của y học tái tạo.
Khi đến được vị trí tổn thương thì tế bào gốc trung mô sẽ thực hiện chức năng sửa chữa bằng các cách khác nhau như tiếp tục tăng sinh để cung cấp nguồn tế bào gốc cho sửa chữa tổn thương, tham gia biệt hóa trực tiếp thành tế bào chức năng, hoặc tiết ra các yếu tố giúp huy động tế bào nội sinh đến vị trí tổn thương.
Sự di trú của tế bào gốc: Tại vị trí tổn thương, các yếu tố gây viêm được giải phóng sẽ kích hoạt tế bào nội mô mạch máu, biểu hiện các phân tử bề mặt cho sự bám dính và di cư của tế bào gốc. Đồng thời, tế bào gốc được huy động, tương tác với tế bào nội mô mạch máu để đi xuyên qua mạch máu, đến vị trí tổn thương để chữa lành.
Cách ghép tế bào gốc trung mô
Trước hết, làm sao để tế bào gốc đến được vị trí tổn thương? Có hai con đường chính để đưa tế bào gốc đến vùng tổn thương là ghép cục bộ và truyền tĩnh mạch.
Đối với ghép cục bộ, tế bào gốc được tiêm trực tiếp vào vùng tổn thương. Đây là cách chủ động để kiểm soát được chắc chắn rằng tế bào gốc được đưa đúng đến vị trí mà bác sĩ mong muốn. Đối với con đường tiêm truyền qua tĩnh mạch, việc kiểm soát đường đi của tế bào phức tạp hơn. Thực tế, tại vị trí tổn thương, tế bào tổn thương và các tế bào xung quanh nó đã tiết ra các tín hiệu. Bản chất của các tín hiệu này là các yếu tố hòa tan trong máu, nó sẽ theo dòng máu đến khắp nơi trong cơ thể với thông tin phát ra báo hiệu rằng có tổn thương xảy ra tại một vị trí cụ thể trong cơ thể. Tùy vị trí tổn thương khác nhau mà các tín hiệu phát ra sẽ có những đặc trưng riêng và nhờ đó các tế bào gốc có thể nhận diện và đi đến được đúng vị trí. Bên cạnh khả năng tự có của cơ thể, bác sĩ cần phải can thiệp trước đó nhằm đưa tế bào đến đúng vị trí. Tế bào gốc được nhận tín hiệu sẽ bắt đầu quá trình hoạt hóa, di chuyển để đi đến vị trí tổn thương, tham gia chữa lành vết thương. Quá trình này được gọi là cư trú. Quá trình di chuyển phức tạp của tế bào gốc được điều phối bởi một lượng lớn các cytokine, phân tử bám dính và các yếu tố tăng trưởng cần thiết cho việc kiểm soát tốt sự tái sinh các mô chức năng một cách an toàn và hiệu quả. Cytokine là các protein hay glycoprotein không phải kháng thể được sản xuất và phóng thích bởi các tế bào bạch cầu viêm và một số tế bào khác không phải bạch cầu. Các protein này hoạt động trong vai trò là các chất trung gian điều hòa giữa các tế bào trong cơ thể. Cytokine giúp tế bào “sống sót”, tham gia vào rất nhiều quá trình sinh học trong cơ thể như tạo phôi, sinh sản, tạo máu, đáp ứng miễn dịch, viêm.
Khả năng sửa chữa tổn thương Các tế bào gốc trung mô (Mesenchymal Stem Cell – MSC) là các tế bào gốc đa tiềm năng, có thể biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau của mô bao gồm nguyên bào xương, nguyên bào sụn, tế bào cơ, tế bào mỡ,… Khi đến được vị trí tổn thương thì các MSC sẽ thực hiện chức năng sửa chữa bằng các cách khác nhau như tiếp tục tăng sinh để cung cấp nguồn tế bào gốc cho sửa chữa tổn thương, tham gia biệt hóa trực tiếp thành tế bào chức năng, hoặc tiết ra các yếu tố giúp huy động tế bào nội sinh đến vị trí tổn thương như đã đề cập ở trên.
Khả năng biệt hóa của tế bào gốc trung mô thành các tế bào khác. Sau khi MSC đi tới các vùng mô bị tổn thương, chúng tương tác chặt chẽ với các kích thích tại chỗ, như các cytokine viêm, các phối tử (ligand) của Toll-like receptor (TLRs) và sự giảm oxy. Các yếu tố này có thể kích thích MSC sản xuất một số lượng lớn các yếu tố tăng trưởng để thực hiện nhiều chức năng cho sự tái sinh mô. Nhiều yếu tố là chất trung gian quan trọng trong sự hình thành mạch và ngăn ngừa quá trình chết theo chương trình của tế bào, ví dụ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu VEGF, yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1), yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi cơ bản (bFGF), yếu tố tăng trưởng tế bào gan (HGF), IL-6 và CCL-2. Ngoài ra, các MSC có đặc tính lẩn tránh miễn dịch nên có tiềm năng ứng dụng lâm sàng lớn, đặc biệt đối với bệnh mảnh ghép chống vật chủ (graft-versus-host disease – GVHD). MSC được chứng minh có hiệu quả trong điều trị nhiều bệnh miễn dịch ở người. Cơ chế suy giảm miễn dịch do viêm là cơ sở cho việc thiết kế các mô hình ứng dụng lâm sàng của MSC. Đầu tiên, lựa chọn thời điểm tối ưu cho việc ghép MSC dựa trên cấp độ và tỷ lệ tiết cytokine khác nhau trong suốt tiến trình phát triển bệnh ở cơ thể người bệnh. Thứ hai, sử dụng cytokine để cảm ứng tế bào trước khi ghép hoặc bổ sung cytokine trước khi ghép có thể được ứng dụng để cải thiện hiệu quả điều trị của MSC. Thứ ba, hiệu quả điều trị của MSC phụ thuộc vào bản chất của các bệnh khác nhau do môi trường viêm khác nhau. Ngay cả đối với một bệnh cụ thể, sự đa dạng của vi môi trường trong các mô khác nhau cũng có thể tạo ra tác dụng chữa bệnh khác nhau của MSC. Hơn nữa cơ chế chính xác của MSC trong cơ thể có thể phức tạp hơn so với những thông tin thu nhận được ở mức in vitro. Do đó, việc xác định cơ chế chính xác sẽ giúp phát triển các phác đồ tốt hơn cho việc ứng dụng lâm sàng sử dụng MSC. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, tiềm năng của MSC giảm dần theo tuổi người hiến tế bào và thời gian nuôi cấy, do đó Hiệp hội Quốc tế về Liệu pháp Tế bào khuyến cáo chỉ nên sử dụng MSC mới tách từ những bệnh nhân trẻ tuổi, không nên sử dụng tế bào từ người cao tuổi, tế bào đã qua nuôi cấy hoặc bảo quản lạnh (tế bào đã qua nuôi cấy hoặc bảo quản lạnh sẽ tăng khả năng chuyển thành dạng ác tính, có khả năng tạo u cao). Nhìn chung, các thử nghiệm trên đã cho thấy tính an toàn cao của MSC khi sử dụng, đồng thời bệnh nhân phần nào cải thiện được tình trạng bệnh.
Ứng dụng trong chữa bệnh Trên mô hình thí nghiệm động vật, MSC đã được chứng minh có khả năng làm giảm sự tiến triển của nhiều bệnh mạn tính như các bệnh thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson), các bệnh tự miễn (viên khớp dạng thấp, tiểu đường typ I), các bệnh tim mạch (nhồi máu cơ tim)… Ở người, trong khoảng 20 năm trở lại đây, số lượng các thử nghiệm lâm sàng và chữa trị sử dụng MSC đã tăng vượt bậc. Những bệnh được quan tâm nhiều nhất bao gồm các bệnh tim mạch, các bệnh tự miễn, viêm xương khớp, gan, rối loạn hô hấp… Ở Việt Nam, các nghiên cứu về tế bào gốc đã xuất hiện từ khá lâu, nhưng thời gian đầu chủ yếu tập trung vào tế bào gốc tạo máu. Gần đây đã có nhiều nghiên cứu sâu hơn về MSC, một số nhóm nghiên cứu đã đạt được những thành công nhất định như Viện Tế bào gốc, ĐH KHTN TP. HCM, Bệnh viện Nhi Trung ương,… Các nhóm này đã phân lập được MSC từ nhiều nguồn khác nhau (tủy xương, mô mỡ, máu cuống rốn, tĩnh mạch dây rốn,…) với độ tinh khiết cao, đồng thời biệt hóa được MSC thành nhiều dạng tế bào khác nhau như tế bào tạo xương, cơ tim, tế bào beta tuyến tụy,… Một số bệnh như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính – COPD, thoái hóa khớp gối, bệnh Lupus ban đỏ hệ thống, đái tháo đường type 1 đã được chữa trị bằng liệu pháp tế bào gốc ở một số bệnh viện và thu được kết quả khả quan.
Sau thời gian khởi động và tiến hành cho các thí sinh đăng kí dự thi, Cuộc thi Sáng tạo Tế Bào Gốc – Stem Cell Innovation lần thứ 6-2019 đã nhận được rất nhiều sự quan tâm và đăng kí tranh tài của các bạn sinh viên đến từ các trường Đại học, Cao đẳng và cả các bạn học sinh từ những trường THPT trên toàn quốc.
Cuộc thi năm nay hứa hẹn sẽ là một mùa thi đấu kiến thức, ý tưởng tế bào gốc đầy kịch tính, hấp dẫn của gần 500 bạn học sinh – sinh viên đến từ 29 trường Đại học, Cao đẳng, THPT khắp cả nước.
Vào ngày 20,21,22/09/2019, các thí sinh sẽ bước vào vòng thi đầu tiên_ Vòng sơ loại. Theo đó, đây là vòng thi nhằm kiểm tra, đánh giá dựa trên kiến thức chung về sinh học của các đội thi với hình thức làm bài trắc nghiệm online trên website của cuộc thi.
Các đội thi nên lưu ý những thông tin dưới đây để có thể đạt được thành tích cao nhất.
– Thời gian thi online: 8h00 ngày 20/9/2019 đến 17h00 ngày 22/9/2019
– Mỗi đội thi gồm 3 thành viên sẽ cùng nhau làm 1 bài thi online duy nhất
– Bài thi gồm 60 câu hỏi trắc nghiệm, thời gian làm bài là 45 phút. Tuy nhiên, đội thi số câu trả lời đúng cùng nhau nhưng có thời gian làm bài thi ít hơn sẽ được chọn vào vòng tiếp theo.
Sau 4 ngày thi sơ loại đầy kịch tính bằng hình thức thi trực tuyến, 51 đội thi xuất sắc nhất của cuộc thi Sáng tạo tế bào gốc_Stem Cell Innovation lần 6-2019 đã lộ diện. Theo đó, mỗi đội thi đã trải qua bài thi gồm 60 câu hỏi trắc nghiệm trong thời gian 45 phút. Kết quả được tính toán công bằng dựa trên số câu trả lời đúng của đội thi và thời gian làm bài.
Bên cạnh đó, BTC cuộc thi cũng công bố chủ đề chính thức của cuộc thi năm nay. Các ý tưởng sáng tạo về tế bào gốc của các đội thi năm nay sẽ xoay quanh chủ đề THUỐC TẾ BÀO GỐC (Stem cell drugs). Đây chắc hẳn là một mảng nội dụng thú vị, cập nhật và tạo cơ hội cho các đội thi áp dụng những kiến thức, kinh nghiệm, sự sáng tạo của mình trong cuộc thi năm nay.
– Thuốc tế bào gốc là gì? – Tế bào gốc được ứng dụng như thế nào để tạo ra thuốc ? – Các đội thi sẽ thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình như thế nào cho thuốc tế bào gốc ?
Danh sách các đội thi bước tiếp vào vòng loại của cuộc thi Sáng tạo tế bào gốc_ Stem cell Innovation #6-2019:
* Bảng trường ĐH Khoa học Tự nhiên:
* Bảng các trường ĐH trên toàn quốc
* Bảng trường Trung học phổ thông
Hẹn gặp lại vào ngày 13/10/2019 tại Viện tế bào gốc! 51 đội thi xuất sắc nhất sẽ cùng nhau tranh tài thi đấu loại trực tiếp để giành 12 tấm vé vào vòng chung kết.
Vào lúc 8h30, ngày 13/10/2019, Lễ khai mạc và vòng loại cuộc thi Sáng tạo tế bào gốc_ Stem Cell Innovation lần 6 -2019 đã diễn ra trong không khí đầy phấn khởi và háo hức của 45 đội thi trên khắp cả nước.
PGS. TS Phạm Văn Phúc tuyên bố khai mạc cuộc thi và khẳng định
cuộc thi ngày càng có sức ảnh hưởng lớn, là sân chơi khoa học uy tín của các bạn
học sinh – sinh viên.
Bên cạnh đó, BTC cuộc thi trân trọng cảm ơn các nhà tài trợ đã
quan tâm, hỗ trợ, cùng đồng hành với cuộc thi để tìm kiếm những ý tưởng xuất sắc.
Sau đó, các đội thi bước vào phần thi trình bày ý tưởng tế bào
gốc của mình trong thời gian 1 phút_ phần thi hoàn toàn mới lần đầu tiên xuất
hiện tại cuộc thi Sáng tạo tế bào gốc. Rất nhiều ý tưởng sáng tạo được trình bày,
không chỉ thể hiện sự vận dụng kiến thức cơ bản trong lĩnh vực sinh học, CNSH,
Y dược mà còn thể hiện khả năng sáng tạo của các bạn. Sau khi 45 đội thi trình
bày ý tưởng của mình, Ban giám khảo đã công bố 4 đội thi xuất sắc tiến thẳng vào
chung kết mà không phải trải qua bất kì phần thi nào.
41 đội thi còn lại bước vào phần thi kiến thức tế bào gốc. Bằng
cách trả lời các câu hỏi điền khuyết, ghép cột, hình ảnh bằng tiếng Việt hoặc
tiếng Anh, Cuộc thi lần lượt tìm ra 8 đội thi xuất sắc nhất, ghi tên mình vào
top 12 cuộc thi Sáng tạo tế bào gốc lần 6 -2019.
Sau hơn 2 giờ thi đấu đầy hấp dẫn và kịch tính, top 12 đội thi xuất sắc lọt vào
vòng chung kết của cuộc thi Sáng tạo tế bào gốc – Stem Cell Innovation lần
6-2019 đã lộ diện. Đặc biệt có đến một phần ba là các đôi thi đến từ các trường
THPT, chứng tỏ về chất lượng thí sinh và sự canh tranh của cuộc thi ngày càng
quyết liệt.
Vòng chung kết cuộc thi sẽ diễn ra vào ngày 03/11/2019, 12 đội thi sẽ trình bày chi tiết ý tưởng của mình trước Ban giám khảo. Ý tưởng Sáng tạo nào sẽ trở thành ý tưởng sáng tạo xuất sắc nhất? Đội thi nào sẽ nâng cao chiếc cúp SCI dành cho người chiến thắng ? Hãy cùng chúng tôi dõi theo hành trình của các đội thi nhé!
Trong các số báo trước như chúng tôi đã thông tin, tế bào gốc đang trở thành xu hướng điều trị tiên tiến, hiệu quả và được quan tâm rất lớn ở tất cả các nước.
Tuy nhiên hiện nay có nhiều phòng khám trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng tuyên bố cung cấp các phương pháp điều trị bệnh bằng tế bào gốc nhưng thực tế lại không đưa ra được hoặc không dựa trên những minh chứng khoa học cho hoạt động của mình.
Tế bào gốc hứa hẹn sẽ giúp chúng ta hiểu và điều trị một loạt các bệnh, chấn thương và các tình trạng liên quan đến sức khỏe khác. Tiềm năng của tế bào gốc đã được chứng minh thông qua các hoạt động nghiên cứu và thử nghiệm trong một thời gian dài. Ví dụ tế bào gốc tạo máu trong điều trị các bệnh về máu đã được chứng minh là một liệu pháp cứu sống hàng ngàn trẻ em mắc bệnh bạch cầu; Tế bào gốc trung mô để điều trị các bệnh hoặc tổn thương cho xương, da cũng đã được đề cập. Các thử nghiệm lâm sàng quan trọng liên quan đến tế bào gốc đang được tiến hành cho nhiều tình trạng bệnh khác và các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục khám phá những cách thức mới để sử dụng tế bào gốc trong y học.
Vẫn còn rất nhiều điều cần nghiên cứu để hiểu về tế bào gốc. Tuy nhiên, các ứng dụng hiện tại của tế bào gốc trong điều trị bệnh đôi khi bị giới truyền thông hay nhưng người không hiểu đầy đủ về khoa học tế bào gốc thổi phồng. Mặt khác, do các phòng khám lâm sàng hay các tổ chức môi giới luôn tìm cách thu hút thêm bệnh nhân bị bệnh mãn tính hoặc các tổn thương nặng nên họ thổi phồng phương pháp điều trị. Người bệnh cần sáng suốt trong việc hiểu biết cả tiềm năng và hạn chế của tế bào gốc hiện nay, từ đó phát hiện ra một số thông tin sai lệch được lưu hành rộng rãi bởi các phòng khám có cung cấp các phương pháp điều trị tế bào gốc chưa được chứng minh.
Dưới đây là “Chín điều cần biết về điều tri bệnh bằng tế bào gốc” để bệnh nhân có thể đưa ra quyết định điều trị phù hợp.
1. Không nhiều bệnh sử dụng liệu pháp tế bào gốc để điều trị được chứng minh là an toàn và hiệu quả.
Danh sách các bệnh được điều trị tế bào gốc với các kết quả được chứng minh là có lợi vẫn còn rất ngắn. Ví dụ ghép tế bào gốc tạo máu hay ghép tủy xương để điều trị một số rối loạn về hệ thống miễn dịch và máu hoặc để xây dựng lại hệ thống máu sau khi điều trị một số loại ung thư là phương pháp điều trị bệnh bằng tế bào gốc sớm nhất và được xác định tốt nhất cũng như được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Tại Việt Nam, một số bệnh viện đang áp dụng liệu pháp này như Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương, Bệnh viện truyền máu-huyết học TP,HCM, Bệnh viện TƯQĐ 108, Bệnh viện Vinmec, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Một số tổn thương bệnh về xương, da và giác mạc có thể được điều trị bằng cách cấy ghép mô, và quá trình chữa bệnh phụ thuộc vào các tế bào gốc trong mô cấy ghép này. Các quy trình này được chấp nhận rộng rãi là an toàn và hiệu quả bởi cộng đồng y tế. Tuy nhiên, tất cả các ứng dụng khác dùng tế bào gốc trong điều trị các bệnh trên vẫn chưa có nhiều cơ sở dữ liệu chứng minh an toàn và hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng. Vì vậy, nếu phương pháp ghép tế bào gốc cho điều trị các bệnh này được giới thiệu thì nên xem đó là phương pháp có tính thử nghiệm cao.
Bệnh nhân nên cảnh giác với các phương pháp điều trị tế bào gốc được quảng cáo mà không có minh chứng khoa học, đặc biệt là minh chứng về sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước hoặc nếu có thì cần kiểm tra mình có phải là người nằm ngoài giới hạn của một thử nghiệm lâm sàng hợp pháp đã đăng ký hay chưa. Nghĩa là, một số bệnh được cơ quan quản lý cấp phép thử nghiệm điều trị lâm sàng nhưng giới hạn về số lượng bệnh nhân tham gia. Tuy nhiên, bệnh viện đó vẫn tiến hành điều trị cho bệnh nhân với số lượng vượt mức cho phép.
2. Bệnh nhân sẽ chịu thiệt thòi khi cố gắng thử điều trị bệnh bằng một phương pháp chưa được cấp phép.
Khi bệnh nhân đang mắc một căn bệnh mà ở thời điểm hiện tại, không có môt phương pháp điều trị nào hoặc có nhưng hiệu quả không có, thật dễ hiểu tại sao bệnh nhân “trong tình trạng không có gì để mất” thử một phương pháp mới, ngay cả khi phương pháp đó không được chứng minh bằng các minh chứng khoa học. Thật không may, trên thị trường luôn tồn tại những cơ sở khám chữa bệnh quảng cáo về các phương pháp điều trị bệnh bằng tế bào gốc nhưng họ lại chưa chứng minh được các cơ sở khoa học.
Khi bệnh nhân thử các phương pháp này, thường thì chi phí mà bệnh nhân phải trả có thể rất lớn. Ngoài chi phí điều trị, có thể phát sinh thêm phí chỗ ở hoặc các khoản phí khác. Trong hầu hết các trường hợp, các công ty bảo hiểm và các chương trình y tế của chính phủ không bao gồm chi phí điều trị cho các thử nghiệm kiểu này.
Nếu đơn vị cung cấp dịch vụ điều trị kèm theo gói du lịch (du lịch trị liệu), các chi phí khác có thể phát sinh bao gồm cả chi phí cho người thân, thời gian ở tại địa điểm điều trị nước ngoài và nhiều chi phí khác.
Mặt khác, các biến chứng tiềm tàng có thể tạo ra các vấn đề sức khỏe ngắn và dài hạn mới, làm cho tình trạng hoặc triệu chứng của bệnh nhân khó kiểm soát hơn
Vì vậy, trước khi bệnh nhân quyết định thử nghiệm với một phương pháp điều trị mới mà chưa được chứng minh hoặc chưa được cấp phép, hãy đánh giá cẩn thận phương pháp điều trị đó.
3. Các loại tế bào gốc khác nhau phục vụ các mục đích khác nhau của cơ thể.
Trong cơ thể trưởng thành chứa nhiều loại tế bào gốc khác nhau với khả năng tái tạo dành riêng và đặc trưng cho mô đó. Các loại tế bào gốc này sở hữu khả năng sửa chữa tổn thương cụ thể và có hạn chế nhất định. Khi không có bất cứ tác động nào từ các thao tác trong phòng thí nghiệm, ở trong chính cơ thể, các tế bào gốc nội tại của từng mô chỉ có thể tạo ra các loại tế bào chức năng được tìm thấy trong chính mô mà chúng sống. Ví dụ các tế bào gốc tạo máu được tìm thấy trong tủy xương chỉ có thể tái tạo được các tế bào trong máu như hồng cầu, bạch cầu hay tiểu cầu. Hay các tế bào gốc thần kinh trong não chỉ có thể tạo ra các tế bào não. Một tế bào gốc tạo máu không thể đáp ứng được việc tạo ra tế bào thần kinh và ngược lại. Vì vậy, không có khả năng một loại tế bào đơn lẻ có thể được sử dụng để điều trị vô số bệnh không liên quan đến các mô hoặc cơ quan khác nhau.
Hãy cảnh giác với các tổ chức quảng cáo cung cấp phương pháp điều trị sử dụng loại tế bào gốc có nguồn gốc từ một vị trí trong cơ thể bệnh nhân nhưng lại không liên quan đến bệnh của bệnh nhân.
4.Sử dụng cùng một loại tế bào gốc với cùng một phương pháp để điều trị một cách có hiệu quả cho các loại tổn thương khác nhau là điều không thể.
Bởi vì các tế bào gốc đặc trưng cho một số mô nhất định không thể tạo ra các tế bào được tìm thấy trong các mô khác mà không cần thao tác cẩn thận trong phòng thí nghiệm, nên rất khó có thể sử dụng cùng một loại tế bào gốc với cùng loại phương pháp để điều trị một cách có hiệu quả cho từng loại tổn thương mô và cơ quan trong cơ thể.
Ngày nay, các nhà khoa học đã có thể tạo ra một số loại tế bào chuyên biệt trong phòng thí nghiệm với tiềm năng biệt hóa cao, ví dụ như tế bào gốc phôi hay tế bào gốc đa tiềm năng cảm ứng (iPS). Những tế bào này có khả năng hình thành tất cả các loại tế bào khác nhau trong cơ thể và mang đến một cơ hội thú vị để phát triển các chiến lược điều trị mới. Tuy nhiên, tế bào gốc phôi và tế bào iPS không phải là ứng cử viên tốt để được sử dụng trực tiếp làm phương pháp điều trị, vì chúng cần có sự chỉ dẫn cẩn thận để trở thành các tế bào cụ thể, cần thiết để tái tạo mô bị bệnh hoặc bị hư hại. Nếu không được hướng dẫn đúng cách, các tế bào gốc này có thể phát triển quá mức và gây ra khối u khi tiêm vào bệnh nhân.
5. Thông tin khoa học phía sau một căn bệnh nên phù hợp với khoa học phía sau việc điều trị
Bệnh nhân càng biết nhiều về nguyên nhân và ảnh hưởng của bệnh càng có nhiều thông tin để xác định các lựa chọn điều trị tốt nhất. Ví dụ, nếu bệnh nhân bị mắc ung thư máu, điều trị ung thư có sử dụng kèm theo sau đó cấy ghép với các tế bào gốc tạo máu sẽ có ý nghĩa. Nếu bệnh nhân bị tiểu đường, việc điều trị bằng tế bào gốc tạo máu không có ý nghĩa gì, bởi vì vấn đề là ở tuyến tụy chứ không phải ở máu. Việc điều trị đòi hỏi phải có sự hiểu biết xem những tế bào cụ thể đó phải làm chính xác những gì và chúng được thiết kế để làm. Nếu không có thao tác đáng kể và cẩn thận trong phòng thí nghiệm, các tế bào gốc dành riêng cho mô sẽ không thể tạo ra các loại tế bào được tìm thấy bên ngoài các mô nhà của chúng.
6. Các tế bào từ chính cơ thể của bệnh nhân không mặc định được coi là an toàn khi sử dụng trong điều trị
Về lý thuyết, hệ thống miễn dịch của bệnh nhân sẽ không tấn công các tế bào của chính bệnh nhân. Vì vậy, các tế bào của chính bệnh nhân sẽ không bị thải loại trong cấy ghép tự thân (sử dụng một tế bào của chính bệnh nhân để ghép cho họ). Tuy nhiên, các quá trình mà các tế bào được thu nhận, tăng sinh về số lượng và sau đó được đưa vào lại trong cơ thể sẽ mang đến rủi ro tiềm ẩn như:
– Bất cứ lúc nào các tế bào được lấy ra khỏi cơ thể của bệnh nhân, chúng sẽ có nguy cơ bị nhiễm virus, vi khuẩn hoặc mầm bệnh khác. Khi cấy ghép trở lại có thể gây bệnh cho chính bệnh nhân.
– Quá nhiều các thao tác trên các tế bào có thể can thiệp vào chức năng bình thường của chúng, bao gồm cả kiểm soát sự phát triển của tế bào.
– Cách thức đưa tế bào trở lại cơ thể bệnh nhân: ở đâu, theo đường truyền nào … quyết định lớn đến hiệu quả điều trị bệnh. Có một số phòng khám tiêm tế bào vào những nơi mà ở điều kiện tự nhiên, tế bào gốc không có mặt và vị trí được tiêm cũng không thuộc về chúng.
7. Lời chứng thực của bệnh nhân và các phương pháp quảng cáo được cung cấp bởi các phòng khám có thể gây hiểu nhầm
Thật khó có thể nói sự khác biệt giữa các thử nghiệm lâm sàng hợp pháp dưới sự thực hiện của các bác sĩ chuyên khoa tại các bệnh viện chính thống và các phòng khám quảng cáo đang thực hiện các phương pháp điều trị chưa được cấp phép. Một điểm khác biệt phổ biến là cách đưa phương pháp điều trị ra thị trường. Hầu hết các bác sĩ chuyên khoa đều nhận được sự giới thiệu của bệnh nhân, trong khi các phòng khám quảng cáo có dịch vụ điều trị tế bào gốc có xu hướng tiếp thị trực tiếp cho bệnh nhân, thường thông qua ngôn ngữ trên Internet, Facebook và trong các quảng cáo trên báo.
Các phòng khám quảng cáo có dịch vụ điều trị tế bào gốc chưa được chứng minh thường xuyên nói quá những lợi ích trong dịch vụ họ cung cấp và sử dụng lời chứng thực của bệnh nhân để hỗ trợ cho tuyên bố của họ. Tuy nhiên, những lời chứng thực này có thể là cố ý hoặc vô ý gây hiểu lầm. Ví dụ, một bệnh nhân có thể cảm thấy tốt hơn ngay sau khi được điều trị, nhưng sự cải thiện có thể là do các yếu tố khác, chẳng hạn như niềm tin mãnh liệt rằng việc điều trị sẽ có hiệu quả, điều trị phụ trợ đi kèm với điều trị chính, thay đổi lối sống lành mạnh thích nghi trong kết hợp với điều trị và biến động tự nhiên trong tình trạng bệnh. Những yếu tố này rất phức tạp và khó đo lường khách quan bên ngoài ranh giới của các thử nghiệm lâm sàng được thiết kế cẩn thận. Bệnh nhân nên tìm hiểu thêm về lý do tại sao chúng ta cần thực hiện các thử nghiệm lâm sàng ở đây.
8. Một điều trị mang tính chất thí nghiệm (experimental treatment) không giống như một thử nghiệm lâm sàng (clinical trial)
Thực tế, một quy trình thí nghiệm không phải hiển nhiên là một phần của nghiên cứu khoa học hoặc của các thử nghiệm lâm sàng. Các thử nghiệm lâm sàng hợp pháp phải đáp ứng một số đặc điểm sau:
– Thử nghiệm lâm sàng (TNLS) được thực hiên dựa trên dữ liệu tiền lâm sàng của chính họ, các nghiên cứu về tế bào trong phòng thí nghiệm, các nghiên cứu về mô và động vật, và các nghiên cứu cho thấy phương pháp điều trị đang được thử nghiệm là an toàn và hiệu quả.
– TNLS chịu sự giám sát của một ủy ban y đức độc lập để bảo vệ quyền của người tham gia.
– TNLS phải tuân theo và phù hợp với các yêu cầu đã đươc quy định, và thông tin của thử nghiệm phải đươc cơ quan quản lý chức năng công nhận.
– TNLS phải là một cấu trúc được thiết kế để trả lời các câu hỏi cụ thể về phương pháp điều trị mới hoặc cách sử dụng phương pháp điều trị hiện tại mới (kết quả thường được so sánh với nhóm bệnh nhân không được điều trị thử nghiệm).
– Người tham gia TNLS không phải trả các chi phí điều trị và theo dõi
– Các thử nghiệm lâm sàng hợp pháp là rất quan trọng đối với sự phát triển của các phương pháp điều trị mới.
9. Để chuyển một nghiên cứu khoa học thành phương pháp điều trị y tế an toàn và hiệu quả cần trải qua một quá trình dài, gồm nhiều bước
Trong quá trình này, có nhiều quan sát được các nhà khoa học ghi nhận. Có khi họ phát hiện ra rằng phương pháp mà họ tìm thấy có tiềm năng trong phòng thí nghiệm nhưng lại không có hiệu quả ở cơ thể động vật, hoặc có khi hoạt động hiệu quả ở cơ thể động vật, nhưng lại không có hiệu quả ở người. Họ có thể khám phá ra rằng một phương pháp điều trị có hiệu quả giải quyết các triệu chứng của bệnh hoặc chấn thương ở người, nhưng nó mang lại những rủi ro không thể chấp nhận được. Các nhà khoa học xem xét cẩn thận và nhân rộng công việc của họ, và mời các đồng nghiệp của họ làm điều tương tự. Do quá trình này mà các nghiên cứu khoa học trở thành y học thường kéo dài, nhưng nó được thiết kế để giảm thiểu tác hại của bệnh nhân và tối đa hóa khả năng hiệu quả.
Các nhà nghiên cứu tế bào gốc đang có những tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu về sự phát triển bình thường của cơ thể, tìm ra những gì sai sót trong sự hình thành bệnh tật và phát triển và thử nghiệm các phương pháp điều trị tiềm năng để giúp đỡ bệnh nhân. Tuy nhiên, họ vẫn còn nhiều điều phải tìm hiểu về cách các tế bào gốc hoạt động trong cơ thể và khả năng chữa bệnh của chúng.